CHẨN TẾ
Ý nghiã của việc cúng thí thực cô hồn:
Nghĩa của hai chữ thí thực là
bố thí thức ăn, về quan niệm ăn của
Phật Giáo như sau:
a. Ðoạn thực:
thức ăn cứng, có thể chia thành phần như
cơm, cháo, rau, canh, thịt, cá v.v. & các thức vật
có hương vị làm xúc cảm tâm thức.
Tóm lại là những thức ăn thông thường
mà các chúng sanh trong cỏi Trời, Người và súc
vật thường ăn, ăn bằng miệng và tiêu hóa
được.
b. Xúc thực:
Ăn với thức quan hay biết mùi vị, tức là cách
ăn của Quỷ, Thần thọ hưỡng hương
vị mà thôi.
c. Tư thực:
ăn với sự kiện thần giao tư tưởng,
là phép ăn của bậc Thiên trên cỏi sắc
giới, ăn với phương thức thuyền
duyệt tức là không chủ về vật phẩm ăn
mà chỉ thọ hưỡng hơi hương, luôn luôn
xem việc ăn là đạo vị, thanh tịnh.
d. Thức thực:
ăn qua sự giao cảm của thức thứ 8, phép
ăn nầy bậc Thánh, Phàm có khác nhau, bậc Thánh hưỡng
thụ một cách hồn nhiên không phân biệt, còn
bậc phàm phân biệt là ngon, dở; do chỗ phân
biệt mà có tham muốn rồi khởi lên tư tưởng
tham ăn đến bị vào vòng sinh tử, luân hồi.
Vì vậy mà khi mình
ăn thì bậc Thánh cũng thọ hưỡng cho đến
các loài ngạ quỷ, súc sanh đều thọ dụng.
Do đó mà các bậc tu hành, khi ăn trước
hết phải cúng dường lên Phật, lên Tổ
rồi làm phép Thí thực cho khắp thập loại chúng
sanh, cô hồn, hai chữ cô hồn là nói chung tất
cả những hương hồn bơ vơ, cô độc,
không nơi nương tựa, không nơi thờ cúng, không
ai ghi nhớ. . . Nhưng theo kinh sách thì gọi là Thí
Thực Ngạ quỷ tức là ban phát thức ăn cho các
loài quỷ đói, do đó những hương hồn bơ
vơ, không nơi nương tựa cũng trở thành
ngạ quỷ. Vậy thí
thực cô hồn cũng là Thí thực Ngạ quỷ.
Cúng thí thực cô hồn là một khoa
nghi cứu độ cho các oan hồn uổng tử, không
nơi nương tựa đã có tự ngàn xưa. Phát
xuất từ hồi Phật còn tại thế. Trong kinh
Phật thuyết Diệm Khẩu Ngạ quỷ Ðà la ni có
ghi lại: Một hôm ngài A Nan đang tịnh tu, có một
con quỷ mặt mày quái dị đến nói với ngài
trong ba ngày nữa ngài sẽ chết. Ngài đem chuyện
ấy bạch lại với đức Phật. Phật
dạy khắp trong ba cõi đều có các loài ngạ
quỷ cần cứu độ. Phật còn dạy cho ngài
A Nan những chú nguyện cần thiết và bảo
lấy gạo nấu cơm cháo để cúng thí. Từ
đó về sau mỗi lần thọ trai, các đệ
tử của Phật thường sớt lại phần
ăn để bố thí chúng sanh và ngạ quỷ. Mãi
về sau, việc cúng thí được chư Tổ
sắp xếp theo thứ lớp: Cúng Phật, Cúng Tổ,
thí thực ngạ quỷ cô hồn trước khi chư
Tăng thọ trai. Tại chùa, cúng thí thực như là
một phần hành trì thiết yếu hằng ngày sau công
phu chiều. Ở Việt nam, ngày trước cứ
mỗi lần trong nhà có lễ: quan, hôn, tang , tế đều
có cúng thí thực. Ðơn giản một mâm lễ
nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo, hay
thông thường gọi là cúng Mông sơn thí thực.
Nguyện nhân đời nhà Tống, Cam lồ Pháp sư
lập một trai đàn cúng thí thực trên đỉnh Mông
sơn thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, phần
khoa nghi dựa theo kinh chú Phật thuyết và lời
cầu nguyện tóm tắc như sau:
1/ Trình bày tất
cả do tâm tạo, qua kệ Hoa Nghiêm: Nhược nhơn
dục liễu tri, Tam thế nhất thiết Phật,
Ứng quán pháp giới tánh, Nhất thiết do tâm
tạo.
2/ Nguyện xa lìa
cảnh ác thú bằng cách tập trung tư tưởng phá
tan mọi phiền não, sám hối tội lỗi, giải
sạch oan khiên qua chú: Phá địa ngục chơn ngôn,
Phổ triệu thỉnh chơn ngôn, Giải oan kết chơn
ngôn.
3/ Cung thỉnh : Mười
phương Tam bảo, Thích Ca, Quán Âm, Ðịa Tạng, và
A Nan Ðà giáng lâm tác chứng.
4/ Hướng dẫn chúng
san
h quy y Tam bảo: Quy y
Phật lưỡng túc tôn, Quy y Pháp ly dục tôn, Quy y Tăng
chúng trung tôn.
5/ Sám hối: Nhất
thiết Phật tử, Hữu tình, Cô hồn giai sám
hối. Nói chung cả người cúng lẫn kẻ
thọ (cô hồn) phải thành tâm sám hối mới có
lợi lạc. Kẻ cúng không bị đọa lạc, người
hưởng (cô hồn) mới thọ dụng được
pháp vị.
6/ Phát đại
nguyện: Chúng sanh thệ nguyện độ, Phiền não
thệ nguyện đoạn, Pháp môn thệ nguyện
học, Phật đạo thệ nguyện thành. Chính người
có phát tâm mới có giao cảm giữa người
cứu độ và người cầu độ, mới
gặt hái được kết quả lợi lạc.
7/ Diệt tội:Thành tâm
sám hối, phát đại nguyện, hành giả tụng các
thần chú diệt tội mới có linh cảm: Diệt
định nghiệp chơn ngôn của ngài Ðịa
Tạng .
Diệt bất định
nghiệp chơn ngôn của ngài Quán Âm.
8/ Tuyên thuyết định
giới: thần chú khai yết hầu chơn ngôn và tam
muội da giới chơn ngôn. Ðể cho chúng sanh diệt
trừ chướng ngại, mở rộng yết hầu,
thọ hưởng pháp thực; thọ xong , giữ
giới để thoát khỏi phiền não.
9/ Biến thức ăn
thành pháp vị: Biến thực chơn ngôn, Cam lồ
thủy chơn ngôn, Nhất tự thủy chơn ngôn,
Nhủ hải chơn ngôn; khiến cho chúng sanh thọ hưởng
được sung mãn.
10/ Niệm Phật: Ðể
cho hành giả và chúng sanh tạo duyên lành gây chủng
tử Phật.
11/ Kết nguyện:
Thần chú gia trì tịnh pháp thực, tất cả
Phật tử, hữu tình, cô hồn đã no đủ, xã
hết tham dục mau thoát cảnh u đồ vào tịnh
độ. Trì chú:”vô giá thực chơn ngôn” phá tang
sự ngăn ngại thánh phàm, tăng tục, bình đẳng
thọ hưởng cam lồ vị.
12/ Hồi hướng:
Cầu cho tất cả chúng sanh an lành vãng sanh cực
lạc.
Khoa này có ba điểm
cốt lõi: Tâm thành, kinh chú, thân khẩu y thanh tịnh.
Cách lập bàn cúng Thí
thực:
Thông thường là phải có 2 (hai) bàn:
một bàn cao và một thấp hơn (gọi là bàn thượng
và bàn hạ) :
_ Bàn thượng:
Tôn trí tượng Phật, hay tượng Bồ Tát,
nhưng thông thường là tượng ngài Tiêu Diện
Ðại Sĩ ( hóa thân của ngài Quán Thế Âm), lư hương,
đèn, hoa, quả, ly nước trong.
_ Bàn hạ (bàn đồ ăn) cũng trang trí:
lư hương, đèn, bông, trái, ly nước trong, ly
đề pha nước trà, một bình trà cúng. Phía sau dãy đồ thờ là một mâm cơm
cúng gồm đủ đồ ăn như cúng linh, ngoài
ra còn có một nồi cháo thật lõng ( cháo thánh),
một dĩa lớn hoặc một khay gồm: muối
hột, gạo, đường thẻ. . . đây là
thành phần chính yếu, nếu có thêm các thứ khác như
: bắp, khoai lang, củ mì, bánh tráng, trái cây v.v. . . càng
nhiều càng tốt.
*Nếu có điều
kiện và khả năng thì lập thêm một bàn nữa
phía trước bàn đồ ăn.
Bàn nầy cao hơn bàn đồ ăn, nhưng
thấp hơn bàn Tiêu Diện một chút.
Trên bàn nầy tôn trí tượng ngài Ðịa
Tạng, lư hương, đèn, bông, trái như các bàn
khác.
Tóm lại, hai bàn thượng
là bàn Phật, Bồ Tát nên trang trí đơn giản,
trang nghiêm và không để đồ ăn.
Lưu ý:
a) Bàn thí thực luôn luôn
lập ngoài nhà, trước cửa chính, nhìn vào bàn
Phật trong nhà, tín chủ lạy hướng từ trong
nhà lạy ra, cách thức lạy như lạy linh.
Thí thực được cúng tại tư gia sau khi
có lễ cầu an, cầu siêu hoàn mãn.
b) Bàn thí thực Cô
hồn không được lập gần cây thạch
lựu, hoặc cây đào vì Quỷ sợ loại cây
nầy.
c) Trước bàn thí
thực phải dành một khoảng trống; ít nhất là
bằng một chiếc chiếu để quí vị
Quỷ Thần, Cô hồn có chỗ lễ bái chư
Phật và thọ thực không bị chướng
ngại. Khi hương đã thắp lên rồi thì
không nên đi qua, lại trong vùng nầy, mà chỉ nên
đi hai bên. Chủ
lễ Cư sĩ nên đứng sau chiếu dành cho các
vị Quỷ Thần và Cô hồn.
Nếu trai đàn chẫn tế, lược khoa thì
khoảng trống nầy ở trước bàn Giác Hoa, và
nên dùng loại dải vải vàng để làm ranh
giới khu vực nầy.
2- Thực phẩm cúng:
Nếu có cúng rau; nên cúng rau chín như rau luộc
hoặc nấu canh, không được cúng rau sống.
Cháo thánh phải nấu thật lỏng (nhiều nước,
nhưng ít gạo). Không nên
lấy cơm rồi cho nước vào để làm cháo.
3- Ban Nghi lễ và người tham dự:
a) Trong suốt thời gian cung hành nghi lễ,
tất cả mọi người không được ăn
hay uống bất cứ món gì.
Ngoại trừ thời gian nghỉ ngơi đã
được qui định trong nghi thức.
b) Phải hành lễ theo đúng thứ tự
mà nghi thức đã qui định, không được
đảo lộn như : thỉnh Cô hồn trước
rồi thỉnh chư Phật và Bồ Tát sau.
Tuy nhiên được phép thay đổi các bài
thỉnh, nhưng nội dung vẫn không khác.
c) Vị phụ trách hương đăng
phải cắm hương sau mỗi lần thỉnh vào
đúng lư hương của chư Bồ Tát hay Cô
hồn như lời cung thỉnh.
d) Nếu có Ðiệp văn nên tuyên đọc
sau diên trà thứ nhì.
Trên đây là những
điều rất căn bản, tầm thường.
Nhưng chính vì sự tầm thường đó mà
chúng ta hay phạm phải và xem nhẹ; trong khi chính mình
đang làm công việc đó và là người chịu hoàn
toàn trách nhiệm về mọi hậu quả.
Do đó chúng tôi viết lên những dòng chữ
nầy với một ước nguyện duy nhất là:
mong quí vị Cư sĩ đang có trách nhiệm nghi
lễ để duy trì mạch đạo và bảo
tồn một phần truyền thống văn hóa của
dân tộc hãy lưu tâm, hầu ứng phú hửu hiệu
trong mọi hoàn cảnh.
Cao hơn cả là chẩn tế cô hồn,
chú trọng đến siêu độ cho các âm linh oan
hồn uổng tử, bất đắc kỳ tử,
bất định nghiệp, chiến sĩ trận vong không
nơi nương tựa. Không những thí thực mà còn
một lòng mong cứu độ cho chư vị thoát
khỏi cảnh khổ nghiệp ác của cõi ngạ
quỷ cô hồn. Một khoa nghi nhiều lợi lạc
nhất nhưng rất khó thực hiện, vì phải
đòi hỏi tinh thông cả hai mặt, kinh điển và
mật điển. Mật điển của khoa Du Già là
Tam Mật đồng tu: Thân kiết ấn, Khẩu trì chú,
Ý quán tưởng. Ấn là Pháp thân, Chú là Báo thân, Kinh văn
là Hóa thân. Thành tâm cầu nguyện thập phương
Tam bảo gia hộ, tam nghiệp thanh tịnh, phát khởi
tam tâm: từ bi, hỷ xã, bình đẳng độ thoát
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam đồ
khổ não, chúng sanh đồng sanh an dưỡng. Có
thể nói đây là một pháp hành trì mà âm cảnh và dương
gian đồng lợi lạc.
Phần nghi lễ thường do một số
thầy thuần thục khoa nghi Du già ngồi đàn
Cung trần pháp đàn
chẩn tế :
Ðàn tràng tiếng Phạn là Mạn đà la, có nghĩa
là một chỗ ngồi, một cuộc đất,
lại còn có nghĩa là Luân viên cụ túc. Tức là
lập một cái đàn bằng đất cao, vuông
hoặc tròn đặt chư tôn lên đó mà cúng tế.
Trên đàn tập trung đầy đủ chư tôn, chư
đức, tạo thành một đại Pháp môn, một
bánh xe tròn trặn, lại còn có nghĩa nơi tụ
hội của thánh hiền, muôn đức đều quay
về. Vậy cung trần pháp đàn chẩn tế là bày
biện, sắp xếp vị trí hành lễ chẩn tế
tròn đầy trang nghiêm theo khoa nghi. Thứ tự từ
trong ra như sau:
1/ Bàn Phật: Cung
thỉnh tượng Phật Thích Ca.
2/ Bàn kinh: Kinh sách,
chuông mõ, pháp khí.
3/ Tham lễ Giác Hoàng:
Chủ sám vào bạch Phật, đội nón Tỳ Lư
Nón Tỳ Lư: tỳ Lư là tên gọi tắc
của Tỳ Lư Giá Na tên chung của Pháp thân Phật
tức là đức Ðại Nhật Như Lai của
Mật giáo. Vị Tăng thủ tọa đội nón
Tỳ Lư đứng làm đức Phật Tỳ Lư
Giá Na (Ðại Nhật Như Lai) tụng kinh thí thực
trong lễ Vu Lan. Do đó nón này các gia trì sư đội
trong các lễ trai đàn chẩn tế, bạt độ
và tang lễ của Phật giáo Việt nam
4/ Màn Sư tử toà:
Sư tử tọa là chỗ ngồi của Phật.
Phật là bậc oai
đức hơn tất cả chúng sanh. Cũng như sư
tử dõng mãnh hơn tất cả các thú. Chớ
chẳng phải là Phật ngồi trên mình con sư
tử. Cho nên dù Phật ngồi bất cứ ở đâu,
dù trên ghế, hòn đá, gốc cây hay mặt đất...
thì những chỗ đó đều gọi là sư
tử tòa. Vậy bức màn sư tử tòa là bức màn
có hình con sư tử được vẽ rất oai nghiêm,
dõng mãnh treo sau lưng vị gia trì sư, tượng trưng
chỗ ngồi của Phật.
5/ Bảo tọa:
Chỗ ngồi của gia trì sư, khi ngồi vào đây là
đại diện chư Phật vì chúng sanh, đặc
biệt là cô hồn mà tuyên dương chánh pháp. Theo khoa
nghi trước khi vị chủ sám vào chỗ ngồi
phải cung hành một nghi thức mật pháp rất nghiêm
trang. Sau khi cung thỉnh ngũ phương Phật xong,
vị chủ sám đến trước bàn Giác Hoa. Vị
tả kim đài 1 đứng vào vị trí ở bàn kim
đài, hai tay nâng thủ lư cung thỉnh sám chủ
đăng bảo tọa để thuyết giới cho cô
hồn. Vị chủ sám đáp lời và xin phép chư
Phật cho đăng bảo tọa. Vị tả kim đài
1 ra lệnh cử chuông trống Bát Nhã để cung nghênh
bằng động tác vổ thủ xích, chuông trống Bát
Nhã cử hành, sám chủ quay về trái thượng
bảo tọa. Kinh sư vào vị trí bàn kim đài.
6/ Màn song khai: Trước
bảo tọa là bức màn phân làm đôi, được
đóng lại hoặc mở ra tùy theo quy định trong
khoa nghi.
7/ Bàn kim đài:
Kinh sư ngồi hai bên tả hữu, mỗi bên ba hay
bốn người. Thứ tự tính từ trong ra ngoài. Có
đội nón Tỳ Lư hay không và xử dụng pháp khí
(tan hay đẩu) tùy theo địa phương.
8/ Bàn giác hoa: Giác
Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như lai, một
đức Phật ở cõi Ta bà, hồi đời quá
khứ cách nay không biết bao nhiêu kiếp. Ngài có
tuổi thọ bốn trăm ngàn vạn ức a tăng
kỳ kiếp. Về đời tượng pháp của
đức Phật ấy có mọt cô gái Bà la môn, nhân
mẹ vừa khuất, đến chiêm lễ tượng
Phật Giác Hoa Ðịnh Tữ Tại Vương tại chùa
cầu cho biết hồn mẹ ở chốn nào, ngài
liền khiến thần thức của cô gaí ấy đến
cõi địa ngục. Nơi đây quỷ vương cho
biết nhờ phước đức cúng Phật và
bố thí của thánh nữ, hồn bà được thoát
cảnh địa ngục mà lên cảnh tiên. Cô gái
ấy tức là tiền thân của Ðịa Tạng Bồ
Tát.
Bên ngoài có các bàn ngũ
phương:
Ngũ phương
Phật là một hệ thống phối trí chư
Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ
pháp hết sức thâm diệu của Phật giáo
Mật tông; và là sự phối hợp giữa ngũ phương,
ngũ trí, ngũ Phật, ngũ bộ và ngũ hành trong
Thai tạng Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà
la. Do đó đàn tràng ngũ phương cũng
được lập hai cách khác nhau:
a/ Lập theo trung khoa Du
Già:
1/ Trung ương:
Tỳ Lô Giá Na (Ðại
Nhật Như Lai) Hiển thân sắc màu vàng, đối
diện bàn Giác Hoa.
2/ Phương Ðông: A Súc
Phật (Bất Ðộng Như Lai) Hiển sắc màu xanh,
trở mặt vào bàn trung ương.
3/ Phương Tây:
Phật A Di Ðà. Hiển sắc màu trắng, trở mặt
vào bàn trung ương.
4/ Phươmg Nam:
Bảo sanh Phật. Hiển sắc màu đỏ, trở
mặt vào bàn trung ương.
5/ Phương Bắc:
Bất Không Thành Tựu Phật. Hiển sắc màu đen,
trở mặt vào bàn trung ương.
b/ Lập theo Kim Cang
Giới Mạn Ðà La:
1/ Trung ương:Tỳ
Lô Giá Na Phật- Phật bộ.
Pháp giới thể tánh
trí, thân sắc màu trắng.
2/ Phương Ðông: A Súc
Phật- Kim Cang bộ.
Ðại viên cảnh trí,
thân sắc màu xanh hoặc màu lam.
3/ Phương Tây: A Di
Ðà Phật- Liên Hoa bộ. Diệu quan sát trí, thân sắc
màu đỏ.
4/ Phương Nam:
Bảo Sanh Phật- Bảo bộ.
Bình đẳng tánh trí,
thân sắc màu vàng.
5/ Phương Bắc:
Bất Không Thành Tựu Phật- Yết Ma bộ.Thành
sở tác trí, thân sắc màu lục
Sở dĩ có sự khác biệt về thân sắc
của ngũ phương Phật là do nhiều nguyên nhân
như: Truyền bá đến các nước Phật giáo
bằng nhiều đường khác nhau, ảnh hưởng
truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia dân
tộc, tiến trình kết cấu và phát triễn Mạn
Ðà La.v.v...Ngoài ra ấn tướng của chư Phật
trong ngũ phương cũng có khác nhau theo sự phát
triễn không ngừng của triết học Mạn Ðà
La. Nhưng đây chỉ là những dị biệt nhỏ
về hình thức, còn nội dung và mục đích tu
chứng hoàn toàn không có gì thay đổi
Phía sau Ngũ phương Phật là:
1/ Bàn Ðịa Tạng
(đồng hướng và cao như bàn Trung ương)
2/ Bàn hộc thực
(thấp hơn, để đồ cúng)
3/ Bàn Tiêu Diện
(cao hơn bàn Ðịa Tạng)
Ngũ phương, Ðịa Tạng và Tiêu Diện là
bảy vị Phật độ cô hồn nhập đàn
tràng thọ hưởng pháp lạc. Thường tại
chùa hay tư gia có thờ Phật, chỉ lập đàn tràng
từ màn Sư tử tòa đến bàn Tiêu Diện trên
rạp tiền chế.
Nếu không đủ sứ chẩn tế thì cúng lược
khoa: phần kinh chú nhẹ hơn, phần đàn tràng
khỏi lập ngũ phương.
BẠT ÐỘ
Giải
oan Bạt độ có nghĩa là cỡi bỏ oan khiên trói
buộc, nhổ sạch phiền não đưa hương
linh qua sông mê về bến giác.Lễ giải oan Bạt
độ mang một tính cách vô cùng quan trọng là ta luôn
nghĩ đến những oanhồn uổng tử,
những bất đắc kỳ tử trong thân thuộc
giòng họ đang chơi vơi nơi cảnh ngạ
quỷ cô hồn chưa được siêu thoát mong
được hoá giải cứu độ.
Trong
hành lễ, Sám chủ xử dụng ấn chú và cây Tích
trượng trong hình thức giải oan:( Triệu
thỉnh, Phá địa ngục, Giải tội khiên, Sám
hối, Quy y ).
Cây
Tích trượng còn có tên là Thanh trượng, Minh
trượng, Trí trượng hay Ðức trượng.
Hiển
giáo dùng làm gậy khi đi khất thực và đuổi
trùng thú. Theo Tích trượng kinh: -Tích trượng của
Phật Ca Diếp có hai gọng và 12 vòng tượng
trưng cho hai đế (chơn đế và tục
đế) và thập nhị nhân duyên.
-Tích
trượng của Phật Thích Ca có 4 gọng và 12 vòng
tượng trưng cho tứ đế và thập nhị
nhân duyên
Mật
giáo thì cho đó là cây Thập Pháp Giới do 5 đại
tạo thành, là hình Tam Muội Da của đức Ðịa
Tạng có 6 vòng tượng trưng lục độ, trên đầu
gậy có 5 bánh xe tượng trưng Bảo tháp. Hình
thức dẫn độ hương linh qua cầu từ
bến mê về bờ giác, bẽ gảy chiếc cầu
giữa đôi đường mê giác, ân cần nhắc
nhở chư hương linh đoạn tuyệt với
quá khứ xấu xa, chuyên tâm tu hành thánh đạo:”
Ðoạn nhất thiết ác, tu nhất thiết thiện,
độ nhất thiết chúng sanh”.
Hơn
nữa, trong kinh Pháp Cú, Phật cũng đã dạy:”Tâm
dẫn đầu, tâm làm chủ các trạng thái tâm lý và hành
vi”.Nếu con người hành động hay nói năng
với một tâm ác xấu thì khổ não sẽ lê
bước theo sau người ấy như bánh xe lần
theo dấu chân của con bò kéo xe. Ngược lại
nếu con người hành động bằng tâm thiện
lành thì hạnh phúc sẽ đuổi theo người
ấy như bóng không rời hình”
Với
tâm thiện lành từ đây chắc hẳn âm linh thoát
khỏi cảnh khổ phiêu bồng, chúng ta cũng không còn
dây dưa với nghiệp cảm ấy nữa.
Ngoài ra
chúng ta còn có những cách bạt độ khác thuần túy
như: quy y linh, vớt vong, thuyết linh.v.v...
Đăng nhận xét