I . Tượng Phật ở Chùa
Tùy theo tập quán từng quốc gia, tông phái, pháp môn nên sự thờ phượng bài trí có đôi phần khác biệt, nhưng tựu trung cũng chỉ có mục đích chiêm bái hàng ngày. Ở Việt Nam xưa kia thờ tự khá rườm rà. Các chùa thường thờ Phật, thờ Tổ(Đạt Ma, Lâm Tế. . .hiện tiền Tổ Sư), thờ Thánh(Quan Vân Trường, Hưng Đạo Vương. . .). Cách bài trí các tượng chư Phật, chư Bồ Tát, có thứ lớp và ý nghĩa rõ ràng. Dưới đây chỉ trình bày cách thờ Phật, thờ Tổ, không giải thích về sự thờ Thánh của một số chùa. Phần nhiều các chùa bài trí theo nguyên tắc: Tiền Phật, hậu linh. Ở trước chánh điện thờ Phật, hậu liêu thờ linh: Án giữa thờ Tổ, án tả hữu dành cho những ân nhân nhà chùa và vong linh ký tự; có nơi vì chật hẹp không có phía sau phải thờ hai bên căn trước.
Phật có tam thân: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
Vậy cách bài trí các tượng ở chánh điện từ trên xuống dưới theo thứ tự sau đây :
A)-Tượng Tam Thế Phật.- Lớp trên cùng tột ở chỗ giáp vách phía trong, có ba pho tượng để ngang một dẫy, hình dáng giống nhau, tức là tượng "Thường trụ tam thế diệu pháp thân", người ta thường gọi tắt là tượng Tam thế Phật, nghĩa là Phật thường trụ, trong thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai.
B)-Tượng Di-Đà tam tôn.- Lớp thứ hai có ba pho tượng lớn, pho tượng ngồi giữa là pho tượng đức A-Di-Đà Phật, tức là Thụ-dụng Trí-tuệ thân “Báo thân”, Pho tượng đứng bên tả là tượng đức Quan-Thế-Âm Bồ Tát, pho tượng đứng bên hữu là tượng đức Đại Thế-Chí Bồ-Tát. Đức Phật và hai Bồ Tát ấy ở Tây-phương Cực-lạc, chủ việc cứu độ chúng sinh ở cõi Sa-bà qua cõi Cực lac.
C)-Tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh.-Lớp thứ ba có ba pho tượng lớn, pho tượng lớn ngồi giữa là tượng Thích Ca Mầu Ni Phật, tức là Ứng- thân hay là biến hóa thân, giáng sinh xuống trần thế, tu thành chính quả và thuyết pháp độ chúng, pho tượng ở bên phải, hoặc đứng trên toà sen , hoặc ngồi trên con sư tử xanh là tượng Đức Văn-Thù Bồ-Tát; pho tượng ở bên hữu, hoặc đứng trên toà sen, hoặc ngồi trên con voi tráng là tượng Đức Phổ-Hiền Bồ-Tát, theo thuyết nói trong Hoa Nghiêm kinh.
Ở lớp thứ ba ấy có nhiều chùa làm tượng đức Thich Ca Mầu-Ni ngồi cầm hoa-sen, như khi ngài thuyết pháp ở Linh-Thứu-Sơn; bên tả là tượng Ca-Diếp Tôn-Giả, vẻ mặt già, bên hữu là tượng A-Nan-Đà tôn giả, vẻ măt trẻ, là hai đại đệ tử của Đức Thích-Ca khi ngài còn ở thế-gian. Tượng hai vị tôn giả ấy đều tạc đứng, hình dáng hai người tỳ khưu.
D)-Tượng Cửu Long.- Lớp thứ tư có pho tượng Cửu Long để giữa. Tượng này theo điển nói khi đức Thích Ca Mầu Ni mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, đoạn ngài đi bẩy bước tay tả chỉ lên trời, tay hữu chỉ xuống đất và ở trên những đám mây có chư Phật chư thiên, nhã nhạc, cờ phướn và bát bộ Kim Cương, đó là tượng Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật lúc sơ sanh. Bên tả tượng Cửu Long có tượng Đế Thích ngôi ngai, mặc áo đội mũ Hoàng Đế, bên hữu có tượng Đại Phạm Thiên cùng một kiểu như pho tượng Đế Thích, đó là theo điển nói hai vị Đại Thiên Vương này chủ-tế ở cõi sa-bà thế-giới và lúc nào cũng hộ trì Đưc Thích - Ca khi ngài chưa thành Phật.
Những chùa thường, ở trong điện thờ Phật, chỉ bầy có thế mà thôi. còn những chùa rộng lớn thì bầy thêm hai lớp tượng nữa là :
E)- Tượng Tứ Thiên - Vương.- Ở ngoài tượng Cửu Long để bốn pho tượng Tứ-Thiên-Vương mạc áo Vương-phục, bày làm hai dẫy đối nhau, tức là bốn vị hộ thế.
F)-Tượng tứ Bồ Tát.- Có chùa bỏ tượng Tư-Thiên-Vương mà bày tượng bốn vị Bồ-Tát, tạc hình Thiên-thần gọi là Ái-Bồ-Tát, tay cầm cái tên; Sách Bồ-Tát, tay cầm cái cây; Ngũ Bồ-Tát, tay cầm cái lưỡi; Quyền Bồ-Tát tay nắm lại và để vào ngực.
G)- Tượng Bát-Bộ Kim-Cương.- Có nhiều chùa tạc 8 vị Kim-Cương, là thần tướng trên trời, thường gọi là Bát-bộ Kim-Cương gồm có :
1)-Thanh Trừ Tài Kim-Cương.
2)-Tích-Độc-Thần Kim-Cương.
3)-Hoàng-Tuỳ-Cầu Kim-Cương.
4)-Bạch-Tĩnh-Thủy Kim-Cương.
5)-Xích-Thanh-Hoả Kim-Cương.
6)-Định-Trừ-Tai Kim-Cương.
7)-Tử-Hiền Kim-Cương.
8)-Đại-Thần-Lực Kim-Cương.
Bốn vị Bồ-Tát và Tám vị Kim-Cương này, theo điển tích ở trong các kinh thi có nhiều thuyết khác nhau, xong đại ý là nói những bậc thần đã phát Bồ-Đề Tâm, đem thần lực mà hộ-trì Phật Pháp.
BỒ TÁT (Bodhisattva) Các vị đại Bồ Tát đối với trên thì cầu được đạo Phật, đối với dưới thì cầu giáo hoá chúng sinh.
Đối với tâm thân mình, chư Bồ Tát phát bốn điều nguyện lớn sau đây :
1)- Tâm như đại địa. 2)-Tâm như kiều thuyền : 3)-Tâm như đại hải.4)-Thân như hư không
Đối với chúng sinh, chư Bồ Tát phát bốn điều thệ nguyện lớn như sau :
1)- Ai chưa được độ, thì khiến được độ.
2)- Ai chưa hiểu, thì khiến được hiểu.
3)- Ai chưa được an, thì khiến được an.
4)- Ai chưa được niết-bàn thì khiến được niết bàn.
-Di Lạc Bồ Tát : Di-Lạc Bồ Tát tiếng Phạn gọi là Maitreya Bodhisattva phiên dịch ra, theo nghĩa thì gọi là A-Dật-Da (Adjita), căn cứ theo lời Thích Ca Mầu Ni nói ra khi ngài thuyết pháp, thì hiện nay Đức Di-Lạc Bồ-Tát còn ở trên tầng trời Đâu-Suất, đợi đến ngày giáng sinh làm người ở trần gian để tu thành Phật, tức là một vị Phật tương lai nối sau đức Thích-Ca Mầu-Ni.
Đức Di-Lạc Bồ-Tát tuy lúc chưa thành Phật vẫn lấy lòng từ bi mà phổ độ chúng sinh cho nên người ta thờ Ngài cũng như thờ một vị đã thành Phật. Thường ở chùa người ta thờ Đức Di-Lạc ngồi giữa, bên tả có Đức Pháp-Hoa-Lâm Bồ Tát, bên hữu có đức Đại Diệu Tướng Bồ Tát, gọi chung là Di-Lạc tam tôn.
-Quán-Thế-Âm Bồ-Tát : Kinh Pháp Hoa nói : Khổ-não chúng sinh, nhất tâm xưng danh Bồ Tát, tức thị quan kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát. Dĩ thị danh Quán-Thế -Âm. Nghĩa là: những chúng sinh bị khổ não mà nhất tâm đọc đến Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tức thì ngài nghe âm thanh của chúng sinh mà độ cho được giải thoát. Bởi thế gọi tên ngài là Quán-Thế-Âm.
Đức Quán-Thế-Âm mà có cái danh hiệu ấy là do một đức Phật đã thụ-ký cho Ngài, cho nên chính Ngài đã nói trong Kinh-Lăng-Nghiêm: "Về vô số kiếp đời xưa có Đức Phật ra đời hiệu là Quán-Thế-Âm Như Lai. Ta đến trước Phật mà phát Bồ-Đề tâm. Phật dậy ta theo ba phép : Văn, Tư, Tu, nghĩa là nghe lời giảng dậy, suy nghĩ về đạo lý, và tu hành mà vào tam-ma-đề (Samadhi). Phật khen ta chóng được viên-thông pháp-môn và tức thì ở ngay chỗ đại hội thụ-ký cho ta cái hiệu là Quán-Thế-Âm". Như thế Ngài được lấy cái danh hiệu của Bản-Sư làm danh hiệu của Ngài.
-Đại-Thế-Chí Bồ-Tát : Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tiếng Phạn là (Mahasthanaprâta Bodhisattva), cùng với Quán-Thế-Âm cùng phụ giúp Đức Phật A-Di-Đà để tế độ chúng sinh. Trong Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ, tán thán công đức của đức Đại-Thế-Chí Bồ-Tát rằng: "Ngài đem ánh sáng trí-tuệ soi khắp hết thẩy, khiến chúng sinh đều thoát khỏi ba nơi ác-đạo, với sức mạnh vô thượng".Vì thế ở các chùa người ta trưng bầy Tượng đức Đại-Thế-Chí và Đức Quan-Thế-Âm đứng hai bên tả hữu đức A-Di-Đà gọi là hai vị Nhiếp-Sĩ.
Hiện nay ở Bắc Việt, chùa Tây Phương, thuộc phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây có pho tượng Tuyết sơn, tạc rất khéo, và chùa Bút Tháp thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bác Ninh có pho tượng Tuyết Sơn cũng rất mỹ thuật. hai pho tượng ấy thật rất đáng chiêm ngưỡng. Trong chùa Đậu thuộc Quận Thường Tín, tỉnh Hà Đông, cách Hà-Nội có 25 cây số về phía nam, có hai pho tượng đặc biệt đó là hai vị : Vũ Khắc Minh và Vũ khắc Trường hai chú cháu đều tu đắc đạo cách đây trên 300 năm, hiện toàn thân xá lợi đang thờ tại chuà Đậu, mà du khách trong nước cũng như quốc tế đều tìm đến chiêm ngưỡng, Cũng tại chùa Đậu còn thấy thờ ở nhà hành lang có 18 vị A-La-Hán ở hai bên dẫy nhà Hành lang.
II .Cách chọn Tôn Tượng Phật để chiêm bái
“Làm thế nào để biết một Tôn tượng Phật, Bồ Tát được tạo, họa đúng pháp.”
Người Phật tử luôn luôn dựa vào kinh điển và lời hướng dẫn của chư Tăng, Ni và các vị Thiện tri thức để tu học. Vậy có kinh sách sau đây đề cập đến việc đúc, vẽ, điêu khắc tượng Phật, Bồ tát:
- Phật Thuyết Tạo Tượng Lượng Đạc Kinh Giải (Đại Tạng Tập 21)
-Phật Thuyết Tạo Tượng Lượng Đạc kinh (Đại Tạng, Vạn Tục Tạng 87)
-Phật Thuyết Tạo Lập Hình Tượng Phước báo Kinh (Đại Tạng Tập 16) còn gọi
là: Phật Thuyết Tác Phật Hình Tượng, Ưu Điền Vương Tác Phật Hình Tượng Kinh, Tạo Tượng Công đức Kinh nói đầy đủ là Đại Thừa Tạo Tượng Công đức Kinh.
-Tượng Pháp Quyết Nghi Kinh (Đại Tạng phần Nghi Ngụy), nhưng Tông
Thiên Thai cho là kết tinh của Kinh Niết Bàn nên hay dẫn dụng.
Tôn tượng Phật có mặt đầu tiên và duyên do như sau:
Đức Thế Tôn khi tại thế đã lên cung trời Đao Lợi hai (2) lần: Lần đầu là Thuyết Kinh Địa Tạng và lần thứ nhì là để báo ân Thân Mẫu là Bà Ma Da thuyết kinh Ma Ha Ma Da trước khi ngài nhập Niết Bàn. Trong lần thứ hai nầy kéo dài suốt kỳ hạ 9 tuần lễ. Ngài đã dẫn theo chư vị Bồ Tát, A La Hán và Đại Đệ Tử đồng thời cũng đã dặn dò chư vị Đệ tử ở lại thế gian cần phải tu hành Phật Pháp tinh tấn, dũng mãnh… Như thường lệ hằng ngày đúng 4 giờ sáng chư vị Đệ tử của đức Phật thức dậy và đến bái yết đức Thế Tôn, nhưng nay lại không thấy được hình bóng của Ngài, nên sự tưởng nhớ càng ngày càng gia tăng thắm thiết. Vì vậy, một số đệ tử của Ngài đã lấy đất sét nặn hình tượng Đức Bổn Sư để chiêm bái tạm thời. Lúc ấy có một vị đệ tử tại gia là vua Ưu Đà Diên (tức Ưu Điền) cũng cảm thấy rất nhớ Phật nên phát tâm nguyện sẽ tạo tượng đức Phật. Vì là Quốc Vương nên Vua có nhiều tiền của và phương tiện, lúc đó tại Thiên giới có vị Tỳ Thủ Yết Ma, vị nầy là bề tôi của Trời Đế thích, ngài có thần thông nên biến hóa vô cùng và là vị Thiên Thần trông coi về việc xây dựng, đã cảm ứng được tấm lòng ngưỡng mộ đức Phật của những người đệ tử của Phật ở dương thế, nên Ngài đã biến hóa thành một người thợ xây dựng xuống trần gian, và người thợ nầy là một cao thủ đắp tượng có tay nghề bậc nhất.
Khi đã đầy đủ thiện nhơn, đúng vào ngày Đức Phật Đản Sanh bắt đầu công tác tạo tượng, trong một thời gian ngắn đã hoàn tất. Sau khi hoàn thành, Tôn Tượng đã phóng ra ánh sáng. Vừa lúc ấy đức Bổn Sư cũng hoàn mãn Pháp hội rất thù thắng tại cung trời Đao lợi. Ngài tán thán công đức vua Ưu Điền đã phát tâm tạo Tôn Tượng, trước đại chúng đông đủ chư vị Thiên Chủ, Long Thiên, Hộ Pháp… Đức Phật nói: “Nếu có người dùng đất, gỗ, nhựa, vàng, bạc, đồng, sắt, hội họa, điêu khắc, đúc, đắp, thêu hình tượng đức Phật dù nhỏ nhất cũng phải bằng đầu ngón tay út, cần nhất là phải làm đúng như pháp, thì công đức rất to lớn.
Khi đức Phật từ cung trời Đao Lợi trở về lại nhân gian, vua Ưu Điền đã đem Tôn Tượng đến dâng lên đức Phật. Lúc nầy tất cả mọi người có mặt đều kinh ngạc vì thấy Tôn Tượng cử động: chấp hai tay; đứng dậy với vẻ hết sức cung kính đức Phật và đảnh lễ đức Bổn Sư ba (3) lạy. Tất cả đệ tử của đức Phật gồm cả Tăng lẫn Tục đều kinh hãi và tán thán không ngớt. Khi đó đức Bổn Sư nói với Tôn Tượng: “Nhà ngươi trong đời vị lai, Phật sự phải đảm trách rất nặng nề và lớn lao. Sau khi ta diệt độ, tất cả đệ tử của Ta đều phó thác cho Ngươi.” Đức Phật lại nói với vua Ưu Điền: “Theo pháp của ta, Ông là người đầu tiên làm đúng quy tắc, chưa có một ai như Ông cả. Việc làm nầy khiến cho chúng sanh có niềm tin vững chắc, nhiều phước đức và thiện căn tăng trưởng.”
Trên đây là tóm tắt duyên khởi về sự có mặt của Tôn Tượng Phật đầu tiên trên thế gian nầy và lý do tại sao người Phật tử chúng ta thấy tượng Phật là như thấy Phật sau khi đức Phật nhập diệt.
Đại cương nội dung kinh tạo tượng, đức Phật đã dạy những gì là quan trọng nhất?
Thiết nghĩ, mỗi chữ trong kinh tạng Phật giáo đều quan trọng như nhau. Bởi vì nếu xa kinh một chữ là đồng với ma thuyết. Hơn nữa, Cổ nhân đã dạy rằng: Tùng lai tu Phật quả giả, lục độ vi tiên. Thành Phật nhân giả, tạo tượng đệ nhất. Nghĩa là: từ xưa tới nay, người tu muốn đắc quả Phật, lấy pháp lục độ làm đầu. Nhân để thành Phật, việc tạo tượng là trên hết. Nhưng trong Kinh Phật Thuyết Tạo Tượng Lượng Đạc, do Ngài xá Lợi Phất thỉnh vấn, đức Phật đã dạy những điểm chính như sau:
1) Kích thước: Từ đỉnh đầu xuống tận lòng bàn chân, phân; tấc kích thước đều có quy định. Chiều cao, bề ngang, lớn nhỏ một chút cũng không được làm sai, phải như kinh, như giáo, như pháp. Các nhà điêu khắc, đúc tạo, hội họa tượng Phật không thể tùy tiện được.
2) Một Tôn tượng mà kích tấc, tỷ lệ không chuẩn xác thì Chánh Thần không chịu ở để hộ trì. Ngược lại tà ma, quỷ mị ở, giảm thiểu những điều lành và tăng thêm những điều bất tường nên ma quỹ tự do hành động, muốn làm gì thì làm.
Sở dĩ bị như vậy là vì Pháp thân chư Phật rất là rộng lớn từ vô lượng kiếp đến nay, từ trên trời, nhân gian, hang rồng, động ma, bốn (4) loài thai, noãn, thấp, hóa sanh, các loài có vảy, có mai, có cánh, có lông… không có nơi nào mà Như Lai không đến. Nên đã hiển thị rõ 32 tướng viên mãn và 80 vẻ đẹp để chúng sanh trông thấy là phát tâm quay về với tự tánh, tu hành chứng đắc được Kim cang thân. Nếu tạo tượng không đúng phép, kích thước, tỷ lệ không chuẩn xác nên Long Thiên, Hộ Pháp không phát nguyện hộ trì, chư Thần, chư Thiên tướng cũng không thủ hộ, nên các loại tà ma, tà tinh, tà mị v.v…đã vào ở trong tượng để gây những sự bất tường. Đó cũng là lẽ tự nhiên.
Tượng Phật và Bồ Tát bán thân có thể thờ phụng và chiêm bái được không?
Theo kinh “Tượng Pháp Quyết Nghi” tức là cuốn kinh giải đáp những nghi ngờ trong thời tượng pháp, là thời kỳ ở giữa chánh pháp và mạt pháp có dạy rằng: “Tuyệt đối không được tạo, họa tượng bán thân, hoặc chỉ tạo họa bộ phận đầu mặt vì làm như vậy là phá hư 32 tướng trang nghiêm viên mãn của chư Phật và Bồ Tát.” Mặc dầu những nhà tạo tượng có thiện tâm, cũng như Phật tử lễ bái những tượng Phật, Bồ Tát không đủ tướng trang nghiêm với lòng rất mực thành kính đi nữa thì công đức và kết quả cũng không được như ý.
Tỷ lệ và kích thước cũng như nghệ thuật tạo tượng Phật, Bồ Tát có khác với nghệ thuật tạo tượng người thế tục hay không? Ở đây chúng ta không bàn về nghệ thuật điêu khắc mỹ thuật thế tục. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày sơ lược kích thước theo kinh “Tạo tượng Lượng Đạc” để Phật tử chúng ta có một khái niệm về những đặc điểm của một tôn tượng Phật hay Bồ Tát.
Đầu tiên chúng ta nên biết qua về hệ thống đo chiều dài của Ấn Độ ngày xưa được dùng trong những kinh sách Phật giáo như: Luận Đại Tỳ Bà Sa, Luận Tạp A Tỳ, Luận Câu Xá, Kinh Phương quảng Đại Trang Nghiêm, Kinh Phật Bổn Nguyện Tập và còn nhiều nữa, tóm tắt như sau:
Từ nhỏ đến lớn: Vi trần, đầu sợi tóc, con kiến, hạt cải, mạch (hạt lúa), túc = 2 hạt lúa, chỉ tiết (lóng tay = 4 túc), kiệt thủ (gang tay = 12 lóng tay), Chửu (chỏ = 2 gang tay), thỏa = 1 sải tay = 120 lóng tay. Đại khái là như vậy, bởi vì kích thước đo chiều dài xử dụng trong kinh điển Phật giáo không giống nhau giữa Ấn Độ và Trung quốc nên đã thay đổi rất nhiều qua các triều đại lịch sử. Căn cứ theo kinh Tạo Tượng Lượng Đạc do Ngài Công Bố Tra dịch, dùng lóng tay giữa của ngón tay giữa co lại, phần đầu ngoài hai chỉ đốt lóng tay giữa là một tấc (thốn). Sau đây là kích thước của một số bộ phận quan trọng trong một tôn tượng:
1) Nhục kế, phần có tóc, cổ mỗi bộ phận cao 4 lóng tay. Tổng cọng tất cả là 12 lóng tức 1 gang tay.
2) Khuôn mặt, từ ranh giới yết hầu đến chấn thủy, từ chấn thủy đến rốn, từ rốn đến âm tạng mỗi phần dài 1 gang tay.
Như vậy phần thân trên từ nhục kế đến âm tạng dài tổng cọng là 5 gang tay.
3) Xương háng, xương bánh chè ( đầu gối), từ mắt cá xuống thẳng lòng bàn chân,
mỗi bộ phận dài 4 lóng tay. Tổng cọng là 1 gang tay.
4) Bắp vế, cổ chân mỗi bộ phận dài 2 gang tay.
Như vậy tổng cọng phần thân dưới là 5 gang tay.
Hai phần thượng thân và hạ thân cọng lại là 10 gang, mỗi gang là 12 lóng, tổng chiều cao là 120 lóng tay. Đây là kích thước chiều cao căn bản. Nếu muốn tôn tượng to, nhỏ thì cứ theo tỷ lệ ấy mà tăng hoặc giảm.
Trong kinh điển cũng hướng dẫn rất rõ ràng và chi tiết về các kiểu tôn tượng như: tượng đứng, ngồi, tượng Bồ Tát, tượng hiển tướng phẩn nộ để hàng phục ma quân v.v…Chắc rằng các nhà hội họa, điêu khắc, tạo tượng Phật Giáo đều rất am tường vấn đề nầy. Do đó để tránh được sự nhầm lẫn giữa tượng của tín ngưỡng nhân gian và tôn tượng của Phật giáo để chiêm bái, một hiển tướng không thể thiếu là nhục kế của Đức Phật - Nhục kế là khối thịt trên đỉnh đầu nhô lên như búi tóc, hình thể tương tự như cái chén úp lại, đây là tướng tốt thứ 32 của đức Phật, và cũng là vẻ đẹp thứ nhất trong 80 vẻ đẹp đó là “Vô Kiến Đảnh Tướng”. Trên đỉnh Nhục kế của đức Phật có một điểm phát ra ức vạn ánh sáng, lớp lớp ánh sáng lần lượt chiếu rọi cho tới thượng phương vô lượng thế giới mà tất cả trời, người và Thập địa Bồ tát cũng không thể thấy được, cho nên gọi là Vô kiến Đảnh Tướng. Phật tử chúng ta thường tụng Thủ Lăng Nghiêm, phần trước Thần chú có các câu: Tùng nhục kế trung, dõng bá bảo quang, quang trung dõng xuất… Vô kiến đảnh tướng phóng quang, Như Lai tuyên thuyết thần chú… Ngoài ra khuôn mặt mà chúng ta thường gọi là “Diện” của tôn tượng Phật và Bồ tát cũng được chỉ dẫn rất rõ ràng trong kinh như diện của tượng Phật phải tròn đầy như mặt trăng (Như Lai mãn nguyệt diện), còn diện của Bồ Tát như hình quả trứng, diện của Minh Vương như hình vuông.v.v…
Muốn thỉnh một tôn tượng đúng pháp, nên tìm ở đâu?
Theo sự hướng dẫn trong Thiền Môn Pháp Ngữ Tân Tri, Phật tử chúng ta muốn thỉnh Tôn tượng Phật hay Bồ Tát để chiêm bái, quán tưởng trong khi tu học, chúng ta nên đến các ngôi chùa Phật giáo có cho thỉnh tượng, những đạo tràng chuyên phát hành văn vật của Phật giáo hoặc những tiệm chuyên cho thỉnh tôn tượng, pháp khí, pháp cụ để tìm một tôn tượng tương đối y như pháp, đừng vì chỉ thích một bộ phận nào đó mà bỏ qua những thiếu sót của tướng tốt và vẻ đẹp, để tránh gây nên những chướng ngại trên con đường tu học lâu dài của chính bản thân mình.
____________
Xem thêm: Cách bài trí tượng phật thờ cúng trong chùa...
Tùy theo văn hóa và lịch sử khác nhau thì tại mỗi chùa có sự khác nhau. Tuy nhiện, do lịch sử truyền nhập Phật giáo ở Việt Nam, phần lớn chùa Việt Nam là chùa Đại thừa. Do đó, ở nhà chính điện cũng như các tòa nhà khác trong chùa, chúng ta thấy có nhiều tượng Phật, Bồ Tát cùng với các tượng thuộc những hệ phái Phật giáo khác.
Tượng bày trong chính điện
Chính điện bao giờ cũng là nơi trung tâm của
sự thờ cúng trong chùa. Ở đây có nhiều lớp bàn thờ làm thành bậc từ cao
xuống thấp. Vị trí các tượng được thay đổi linh hoạt theo từng chùa. Có
những chùa có rất nhiều tượng như chùa Mía ở Hà Tây, có tới 278 pho
tượng, chùa Trăm Gian ở Hà Tây có 153 pho tượng… Các lớp bàn thờ được
sắp xếp theo nguyên tắc sau: lớp bàn thờ cao nhất ở sâu trên cùng giáp
mái chùa, sau đó các lớp bàn thờ đặt tượng cứ thấp dần, tiếp sau lớp bệ
thờ cuối cùng bao giờ cũng là hương án. Nguyên tắc bài trí khá uyển
chuyển và linh hoạt đối với mỗi chùa. Tuy vậy, một số nét chung thường
thấy như sau:
Tượng Phật sơn son thếp vàng trong chùa (ảnh chụp tại chùa Trăm Gian, Hà Tây)
* Tầng cao nhất của bàn thờ ở chính điện, sát
vách, thường có 3 pho tượng gọi là “Tam thế Phật”, tức là các vị Phật
của ba thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Một trong các Phật quá
khứ là Phật A Di Đà, Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mầu Ni, Phật tương
lai là Phật Di Lặc.
Ba tượng Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gồ
thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc, tai dài, ngực có chữ vạn (+),
mình có sắc hoàn kim sáng rực, mặt nguyệt. Ba pho tượng Tam thế được đặt
ngồi trên tòa sen.
* Phía dưới ba pho tượng trên thường xếp ba pho tượng gọi là “Di Đà tam tôn” (còn gọi là “Tây phương tam thánh”) gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm (tiếng Phạn: Avalokiteśvara) ở bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải. Tượng Phật A Di Đà thường có kích thước lớn hơn các tượng khác. Tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích cao 1,82 m, trong tư thế ngồi toạ thiền, không kể bệ và đài sen; tượng này ở chùa Bần Yên Nhân (Hưng Yên) cao tới 2 m, không kể bệ và đài sen. Hai tượng còn lại là hai vị thị giả giúp việc cứu thế cho Phật A Di Đà nên thường được tạc kiểu đứng chầu bên cạnh. Bộ “Di Đà tam tôn” được đặt ở tầng thứ hai để tỏ ý là mặc dù các ngài ở cõi Cực lạc nhưng vẫn có duyên và gần gũi với cõi Sa bà này, gần gũi với chúng sinh.
* Dưới ba pho tượng “Di Đà tam tôn”, đã nói bên trên, thường là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni (còn gọi là Thích ca giáo chủ) ngồi giữa với tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải. Thích Ca ngồi trên tòa sen, còn Văn Thù và Phổ Hiền đứng trên tòa sen. Bộ ba tượng này thể hiện cảnh Phật Thích Ca Mầu Ni đang thuyết pháp. Có nhiều nơi, thay vào vị trí của Văn Thù và Phổ Hiền là hai đệ tử của Thích Ca là Ca Diếp và A Nan Đà khi Phật Thích ca còn đang ở thế gian.
* Ở lớp ban thờ thứ tư, chiếm vị trí ở giữa là tượng Cửu Long. Hai bên là tượng Đế Thích và Phạm Thiên. Tượng Cửu Long diễn tả Phật Thích Ca Mầu Ni lúc mới sinh. Theo truyền thuyết, khi ngài mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm. Tắm xong, ngài tự đi được bảy bước về phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn” (trên trời, dưới trời chỉ có một ta), xong ngài lại nằm xuống theo kiểu con trẻ. Đế Thích là vua chủ tể cõi trời dục giới, còn Phạm Thiên là vua chủ tể cõi trời sắc giới. Vì là vua nên tượng các vị được tạc theo chân dung hoàng đế: đội mũ miện, ngồi trên ngai.
* Phía dưới ba pho tượng trên thường xếp ba pho tượng gọi là “Di Đà tam tôn” (còn gọi là “Tây phương tam thánh”) gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm (tiếng Phạn: Avalokiteśvara) ở bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải. Tượng Phật A Di Đà thường có kích thước lớn hơn các tượng khác. Tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích cao 1,82 m, trong tư thế ngồi toạ thiền, không kể bệ và đài sen; tượng này ở chùa Bần Yên Nhân (Hưng Yên) cao tới 2 m, không kể bệ và đài sen. Hai tượng còn lại là hai vị thị giả giúp việc cứu thế cho Phật A Di Đà nên thường được tạc kiểu đứng chầu bên cạnh. Bộ “Di Đà tam tôn” được đặt ở tầng thứ hai để tỏ ý là mặc dù các ngài ở cõi Cực lạc nhưng vẫn có duyên và gần gũi với cõi Sa bà này, gần gũi với chúng sinh.
* Dưới ba pho tượng “Di Đà tam tôn”, đã nói bên trên, thường là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni (còn gọi là Thích ca giáo chủ) ngồi giữa với tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải. Thích Ca ngồi trên tòa sen, còn Văn Thù và Phổ Hiền đứng trên tòa sen. Bộ ba tượng này thể hiện cảnh Phật Thích Ca Mầu Ni đang thuyết pháp. Có nhiều nơi, thay vào vị trí của Văn Thù và Phổ Hiền là hai đệ tử của Thích Ca là Ca Diếp và A Nan Đà khi Phật Thích ca còn đang ở thế gian.
* Ở lớp ban thờ thứ tư, chiếm vị trí ở giữa là tượng Cửu Long. Hai bên là tượng Đế Thích và Phạm Thiên. Tượng Cửu Long diễn tả Phật Thích Ca Mầu Ni lúc mới sinh. Theo truyền thuyết, khi ngài mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm. Tắm xong, ngài tự đi được bảy bước về phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn” (trên trời, dưới trời chỉ có một ta), xong ngài lại nằm xuống theo kiểu con trẻ. Đế Thích là vua chủ tể cõi trời dục giới, còn Phạm Thiên là vua chủ tể cõi trời sắc giới. Vì là vua nên tượng các vị được tạc theo chân dung hoàng đế: đội mũ miện, ngồi trên ngai.
Trên bàn thờ chính ở nhà thượng điện, ngoài
tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, ở một số chùa còn có tượng Phật Di
Lặc. Tượng được tạo với bộ mặt tươi cười, áo phanh, để hở cái bụng to.
Thường hai bên tượng này, người ta còn đặt ở bên trái tượng Pháp hoa lâm
Bồ Tát, bên phải là Đại diệu tướng Bồ Tát, gọi chung là Di Lặc Tam Tôn.
Ngoài ra, ở một số chùa, sau lớp tượng Cửu long, người ta còn bày bốn
pho tượng Tứ Thiên Vương. Đó là bốn vị Thiên Vương phân nhau cai quản
bốn cõi ở bốn phía núi Tu-di, nơi ngự trị của Đế Thích. Có chùa lại bày
tượng Tứ Bồ Tát vào vị trí của Tứ Thiên Vương. Những chùa rộng rãi còn
bày thêm tượng tám vị Kim cương (Bát bộ Kim cương) ở hai bên sát chính
điện, mỗi bên bốn vị, mặc giáp trụ và cầm vũ khí.
Tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay cũng thấy
được bày bổ sung vào điện chính. Cần lưu ý là các tượng Đức Quan thế âm
có nhiều biến thể nhất trong các chùa ở Việt Nam và các biến thể này hầu
hết lại được diễn tả bằng hình tướng nữ: Phật bà Quan Âm nghìn mắt
nghìn tay, Quan Âm Thị Kính. Cũng ở nhà chính điện, ở hai bên dãy bàn
thờ chư Phật có thể gặp lại tượng thờ Thái thượng Lão quân ở bên phải và
Khổng Tử ở bên trái. Đây là hai vị tổ của Đạo giáo và Nho giáo được thờ
trong điện thờ Phật của các chùa để diễn tả tư tưởng “Tam giáo đồng
nguyên” của xã hội Việt Nam xưa.
Tượng bày trong bái đường
Trong nhà tiền đường (gian bên cạnh của nhà
bái đường) thường có hai tượng Hộ Pháp là những vị thần bảo vệ Phật
Pháp, mặc giáp trụ, cầm vũ khí, đứng hoặc ngồi trên lưng sấu, một loại
sư tử huyền thoại. Kích thước của tượng rất lớn, đắp bằng đất thó. Dân
gian vẫn nói “to như ông Hộ Pháp” là cách nói so sánh với hai tượng này.
Còn một số thuyết khác, đã thành phổ biến, cho rằng tượng vị bên trái
là Khuyến thiện (gọi tắt là ông Thiện), tượng vị bên phải là Trừng ác
(gọi tắt là ông Ác). Theo thuyết này thì việc bày đối xứng hai tượng ông
Thiện-Ác nói lên sự tồn tại biện chứng của hai bản nguyên Thiện-Ác.
Hai tượng Hộ pháp ( Chùa Thầy)
Ở phía Đông nhà bái đường có ban thờ tượng
Thổ địa thần, có một số chùa đưa tượng này ra thờ riêng ở một miếu bên
cạnh chùa. Ở một số chùa, bên cạnh thờ Thổ địa thần ta gặp bàn thờ Long
thần. Theo truyền thuyết, Long vương vốn lúc đầu định hãm hại Phật tổ,
phá hoại sự nghiệp của Phật, không cho thành chính quả nhưng đã không
phá nổi nên đã quy Phật và hộ trì Phật pháp.
Phía Tây nhà bái đường thường có pho tượng
Thánh tăng. Tượng này được bày nhiều nhất ở nhà tăng đường (nhà tổ). Ở
nhà tổ, ngoài tượng các vị sư từng trụ trì ở chùa, còn có bàn thờ đặt
tượng Bồ Đề Đạt Ma, nhà sư Ấn Độ đến Trung Hoa vào khoảng đầu thế kỷ 6,
được coi là người sáng lập Thiền Tông ở đó.
Ở nhà bái đường, đôi khi còn có các bàn thờ
mười vị Diêm Vương, được gọi là thập điện Diêm Vương, tức mười vị vua
cai quản mười tầng địa ngục.
Tượng bày ở nhà hành lang
Nhà hành lang có thể là hai dãy nhà chạy song
song ở hai bên nhà chính điện. Cũng có thể là hai dãy như vậy mà chung
mái với nhà điện chính và mang đúng nghĩa là hành lang, theo hai lối
hành lang này có thể đi tiếp vào hậu đường. Người ta thường bày tượng 18
vị La Hán, mỗi bên 9 tượng. Có chùa như chùa Keo ở Thái Bình, các tượng
La Hán được bày ngay ở tiền đường. Còn ở chùa Tây Phương, Hà Tây lại là
các tượng Tổ (trong 28 vị) người Ấn Độ mà Thiền tông Trung Quốc thừa
nhận. Kích thước tượng La Hán tương tự như người thực, các vị ngồi trên
tảng đá hay gốc cây, mỗi vị có một tư thế riêng, có dáng đang duy nghĩ
trầm mặc. Sự đông đảo và đa dạng của các pho tượng này đã cho ra đời một
thành ngữ “bày la liệt như La Hán”. Cũng có khi tượng La Hán được bày ở
nhà hậu đường.
Tượng bày ở nhà tăng đường
Nhà tăng đường còn gọi là nhà hậu đường vì
nằm sau chính điện, có thể được xây tách rời hoặc liền sát với chính
điện. Cách bố trí tượng thờ ở nhà hậu đường cũng khá đa dạng, nhưng có
thể hình dung một công thức sau: Gian giữa của nhà tăng đường thường có
bày tượng Thánh tăng (còn gọi là A-nan-đà) và tượng Đức tổ Tây. Đức tổ
Tây có pháp danh là Bồ-đề-đạt-ma. Ngài được coi là sư tổ thứ nhất của
Thiền tông ở Trung Quốc.
Ở nhà hậu đường của một số chùa còn bày tượng
Quan Âm tống tử và Quan Âm tọa sơn. Hai bên tượng Quan Âm tống tử
thường có hai tượng Kim đồng và Ngọc Nữ, hay hai tượng Thiện tài và Long
nữ.
Chùa Việt Nam còn có một điều đặc biệt đó là
có các bàn thờ chư vị tức là các vị thánh của Đạo giáo và tín ngưỡng dân
gian. Đó là bàn thờ Mẫu, tức nữ thần mẹ. Có nhiều Mẫu như: Mẫu Thượng
Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa Phủ, Mẫu Liễu, Tứ pháp…
Trong một số chùa, đằng sau điện thờ Phật là
hậu cung thờ một vị thần. Các vị thần được thờ đều là những “nhân thần”,
có nghĩa là những con người được coi là có thực, nhưng về sau nhờ học
tập, tu luyện, đã có tài thần thông biến hóa, nghĩa là có những khả năng
của một vị thần. Nhờ những khả năng đó, họ cứu dân giúp nước và vì vậy,
họ được nhân dân một vùng hay nhiều vùng thờ phụng.
Ngoài ra, các nhân vật lịch sử thực sự cũng
được thờ tại chùa. Họ là những ông quan, những danh sĩ hay những vị
tướng đã có công với nước hay với nhân dân một vùng như Mạc Đĩnh Chi,
trạng nguyên thời nhà Trần được thờ ở chùa Dâu,
Bắc Ninh hay Đặng Tiến Đông, vị tướng thời nhà Tây Sơn, được thờ ở chùa
Trăm Gian, Hà Tây. Trong các chùa này, thường có tượng chân dung các
nhân vật lịch sử được thờ.
Một hình thức thờ tự khác gắn với các chùa
Việt Nam là thờ “hậu”. Hình thức này có mối liên hệ với tập tục thờ cúng
tổ tiên đã hình thành lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người không có con muốn
được thờ cúng sau khi chết, đã tìm đến nhà chùa. Họ đóng góp cho chùa
một số tiền hay ruộng đất và xin nhà chùa cúng lễ họ sau khi chết. Sự
thờ cúng này gọi là thờ “hậu”. Trong nhiều chùa, bàn thờ “hậu” thường là
một hành lang với những bát hương, đặt trước những tấm bia đá, gọi là
bia “hậu”, trên đó có khắc rõ tên tuổi, quê quán của những người không
có con cháu nối dõi, thường là cả vợ và chồng, cùng với số tiền họ đóng
vào chùa và yêu cầu được thờ ở chùa. Ở chùa Cổ Lễ Nam Định, các bia hậu được gắn dày đặc trên tường hành lang bao quanh chính diện.
Một ví dụ:
Cách bố trí tượng thờ trong chùa miền Bắc
HT. Kim Cương Tử
HT. Kim Cương Tử
Cách bố trí tượng Phật ở các chùa không giống
nhau tuỳ theo Thiền phái. Các chùa miền Bắc thường là theo Bắc tông,
cách bài trí tượng Phật khác với chùa miền Nam, thường đơn giản hơn.
Một ngôi chùa Phật giáo (theo Bắc tông – ở miền Bắc
nước ta) phổ biến có 4 khu vực: Chính điện, Tiền đường, Nhà hành lang,
Nhà tổ và nhà trai.
Ở chính điện
1. Tượng Tam Thế là ba pho tượng ngồi ngang nhau ở
nơi cao nhất trên bàn thờ, đại diện cho chủ Phật trong ba thời gian quá
khứ, hiện tại thế, vị lai thế (có thuyết nói đức Phật A-di-đà là Phật
quá khứ “tam thế tương liên” thì không đúng. Nên nhớ trong kinh Tịnh Độ,
danh hiệu của Ngài Vô Lượng Thọ “hiện nay Ngài đang thuyết pháp” tiếp
dẫn chúng sinh ở mười phương thế giới vãng sinh tới cõi cực lạc, vả lại
Ngài cũng ra đời cõi Sa Bà này).
Chính điện chùa Bồ Đề (Long Biên, Hà Nội). Lớp
trên cùng: Tam thế Phật. Lớp thứ hai: Bồ tát Đại thế Chí – Phật A Di đà –
Bồ tát Quan Âm. Lớp thứ ba: Ananda – Phật Thích Ca – Ca diếp.
2. Tượng A-di-đà Tam Tôn: Tượng còn được gọi là “Tây
phương tam thánh” đặt ở hàng thứ hai từ trên xuống gồm: Phật A-di-đà
(ngồi giữa) Đại Thế Chí (bên trái). Đây là 2 vị hộ pháp giúp việc cứu độ
cho Phật A-di-đà. Quan Thế Âm (bên phải) với một số sắc tướng và danh
hiệu khác Quan Thế Âm vô uý, Quan Thế Âm Nam Hải, Quan Thế Âm nghìn mắt
nghìn tay, Phật bà Quan Âm. Phật A-di-đà là Phật được tạc to nhất trong
các nhóm tượng tuỳ theo khuôn khổ từng chùa.
Lớp thứ hai: Di Đà Tam Tôn chùa Kim Liên (Ba Đình, Hà Nội)
Phật A-di-đà được tạc trong tư thế toạ thiền, ngồi
xếp bằng, hai tay đặt giữa lòng đùi, khuôn mặt đôn hậu, mắt nhìn xuống
suy tư, miệng hơi mỉm cười. Cũng có nơi, tạc tượng A-di-đà ở tư thế
thuyết pháp trên toà sen (ít thôi).
Tượng Phật A Di Đà chùa Kim Liên
Tượng Phật A Di Đà chùa Phật Tích (Bắc Ninh)
3. Tượng Thích-ca Mâu-ni: Tượng đặt ở hàng thứ ba,
chính giữa. Ở trong chùa Phật giáo ta, tượng Thích-ca Mâu-ni được tạc ở 4
tư thế thuộc 4 giai đoạn khác trong chùa Phật giáo ta, tượng Thích-ca
Mâu-ni được tạc ở 4 tư thế thuộc 4 giai đoạn khác nhau. Theo truyền
thuyết về cuộc đời và sự nghiệp của Thích-ca Mâu-ni với cái tên gọi như
sau:
Chính điện chùa Côn Sơn (Hải Dương)
-Tượng Cửu Long (Thích-ca sơ sinh) tượng Thích-ca ở
tư thế đã bước ra rồi đứng lại, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống
đất, có 9 con rồng uốn chầu xung quanh, tượng Cửu Long dựa vào Phật sử
nói rằng, khi Thích-ca giáng sinh có 9 con rồng phun nước để tắm cho
Ngài. Tắm xong Ngài tự đi 7 bước về phía trước, tay phải Ngài chỉ lên
trời, tay trái Ngài chỉ thẳng xuống đất mà nói ngay được rằng “Thiên
thượng, Thiên hạ, duy ngã độc tôn” (có nghĩa là trên trời, dưới đất, chỉ
có “ta” là tôn quý) (Ta đây là “Đại ngã” bản tính Chân Như, không phải
là Tiểu Ngã cá nhân riêng của mình, truyền tâm ấn). Hai bên tượng Cửu
Long là hai tượng Đế Thích và Phạm Vương, chủ thể thế giới, nên tạc theo
kiểu nhà vua ngồi trên ngai.
- Tượng Tuyết Sơn diễn tả Thích-ca Mâu-ni trong thời
kỳ tu khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn (núi rừng Ni-câu-luật) với thân hình
gầy gò, chỉ có da bọc xương. Dân gian quen gọi là tượng “nhịn ăn để
mặc”.
Tượng Thích Ca Tuyết Sơn (chùa Bút Tháp, Bắc Ninh)
- Tượng Thích-ca thuyết pháp (còn gọi là Thích-ca
giáo chủ): Tượng được tạc trong tư thế ngồi trên toà sen, mặc áo pháp,
một vai để trần (tượng tay cầm bông sen là tượng Thế Tôn niêm hoa…). Hai
bên tượng Thích-ca thuyết pháp có hai vị thị giả là Văn thù Bồ tát
(giúp về trí tuệ thuộc lý) và Phổ hiền Bồ tát (giúp về hành nguyện thuộc
sự). Có chùa thay hai tượng này bằng hai tượng đệ tử An-na-đa và
Ca-diếp (thuộc bộ ba của Tiểu thừa).
Tượng Đức Phật Thích Ca niêm hoa tại chùa Côn Sơn
Tượng Phật Thích Ca tại chùa Bồ Đề
Tượng Phật Thích Ca niêm hoa tại làng nghề Sơn Đồng (Hà Tây)
- Tượng Nát Bàn Tượng diễn tả Thích-ca Mâu-ni đang
nhập Nát bàn. Thông thường tượng Nát Bàn ở tư thế nằm nghiêng sườn bên
phải xuống thoải mái, tay phải co lại chống lên đầu, mắt lim dim. Tượng Nát Bàn ít thấy ở các ngôi chùa thờ Phật theo Bắc tông, còn ở các khu chùa thờ Phật theo Nam tông thấy phổ biến.
4. Tượng Phật Di Lặc. Phật Di Lặc được diễn tả bằng
một pho tượng có dáng thư thái, thanh thản, hết ưu phiền của bậc tu hành
sắp đắc đạo thành Phật. Vì có thân hình đẫy đà, miệng cười lạc quan,
nên dân gian quen gọi là ông “No” hay ông “Nhịn mặc để ăn” (phân biệt
với tượng Tuyết Sơn là ông “Nhịn ăn để mặc”). Thông thường hai bên tượng
Phật Di-Lặc là hai tượng Pháp hoa lâm Bồ tát và Đại diện tướng Bồ tát,
nên còn gọi là Di-Lặc tam tôn.
Ở nhà Bái đường
Thông thường nhà Bái đường được xây dựng trước cửa Chính điện (còn gọi là tiền đường). Các tượng bày ở nhà Bái đường gồm:
+ Tượng Hộ pháp. Hai bên ở
Bái đường đặt tượng hai vị Hộ pháp. Hai vị Hộ pháp là ý nghĩa khuyến
Thiện và trừng ác để hộ trì Phật pháp. Tượng Hộ pháp thường được tạc rất
to, theo kiểu võ sĩ cổ, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ, một vị tay cầm
viên ngọc, một vị tay cầm binh khí, trong tư thế đứng hoặc ngồi trên
lưng một con sân (một loại giống sư tử).
Hộ Pháp và Bát bộ kim cương tại chùa Hà (Hà Nội)
Tượng Hộ Pháp chùa Bộc (Đống Đa, Hà Nội)
+ Tượng Thần Thổ Địa – Thánh Tăng. Một
bên tượng thổ địa và một bên tượng Thánh tăng, lấy điển tích về cùng
xuất hiện đồng thời chứng minh khi Đức Thích-ca vừa thành đạo. Trưởng
giả Cấp-cô-độc, một nhân vật thời Thích-ca tại thế, đã mua một khu vườn
cây xây tịnh xá, ngôi chùa rất to lớn đầu tiên trên thế giới, thỉnh Phật
Thích-ca về thuyết pháp. Sau này ông được coi là người bảo vệ tài sản
của nhà chùa. Vì vậy người ta gọi là Đức ông hay Đức chúa Già Lam Chầu
Tể (thờ gian bên).
Tượng Đức Thánh Hiền (Chùa Bộc)
Thập Điện Diêm Vương (chùa Bộc)
Nhà Hành lang:
Trong các ngôi chùa thờ Phật ở
Việt Nam, nhà hành lang được xây rất linh hoạt: có thể là hai dãy nhà
riêng để đi lại chạy song song ở hai bên nhà Chính diện, mà theo đó, đi
vào nhà tăng (hậu đường). Tượng bày ở nhà hành lang là 18 vị La Hán (gọi
là thập bát Hán). Tượng tạc kích thước bằng người bình thường với các
tư thế khác nhau. Vị ngồi trên tảng đá, vị ngồi trên gốc cây, lưng ngựa,
lưng tê giác vẻ mặt suy nghĩ trầm mặc. La Hán là vị quả thánh cao nhất
của Tiểu thừa nhưng còn phiền não luân hồi sinh tử. Phật giáo Tiểu thừa
cho rằng có 16 vị La Hán vâng lệnh của Phật ở mãi trên thế gian để cứu
độ chúng sinh, không nhập diệt. Theo sách Phật, chỉ có 16 vị La Hán
nhưng trên thực tế người ta tạo thêm hai vị nữa thành Thập bát La Hán.
Nhà Tăng:
Nếu thờ Tổ gọi là Nhà Tổ, dùng trai tăng gọi là Nhà
Trai. Nhà Tăng thường được xây dựng sau chính điện nên còn gọi là hậu
đường. Trên cao của gian giữa thờ hai tượng Thánh tăng A-nan-đa (có
người nói rằng Văn Thù Bồ tát) và sư tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bohhidharma). Thờ
ngài A-nan-đa thuộc Tiểu thừa; Ngài Văn Thù Bồ tát thuộc Đại thừa; Ngài
Bồ-đề-đạt-ma là tổ sư truyền đạo thiền sang Đông Hoa. Dưới là các vị sư
tổ đã tu tại chùa. Các vị sư tổ có thể tạc tượng hoặc không. Ở chùa xây
dựng một điện riêng để thờ các vị thần thánh này. Ngoài ra, ở nhà tăng
trong một số chùa còn thờ tượng Quan Âm Tổng Tử, Quan Âm toạ sơn…
Nhà tổ chùa Bồ Đề với hình Đức Đệ Nhị Pháp Chủ Thích Tâm Tịch
Trên là cách bố trí có tính phổ biến trong một ngôi chùa Phật giáo theo Bắc tông, tuy vậy ở mỗi chùa tuỳ theo vị trí các tượng cũng có sự thay đổi cho phù hợp.
Tượng táng Thiền Sư Vũ Khắc Minh tại chùa Đậu (Hà Tây)
Đăng nhận xét