Mỗi tập kinh Phật thuyết ra
đều có ý nghĩa giáo huấn tuỳ với căn
cơ của chúng sanh. Do đó, muốn biết công
đức của mỗi loại kinh tụng, người
Cư sĩ cần phải hiểu đại khái tóm
lược ý nghĩa của mỗi cuốn kinh.
Nhựng
bộ kinh thường tụng là: A Di Ðà, Phổ Môn,
Dược Sư, Thủy Sám, Ðịa Tạng, Báo Ân,
Lương Hoàn, Pháp Hoa. Còn những tập kinh dài như:
Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Ðại Bát Nhã, Bảo Tích.v.v...thì
một phần vừa dài, một phần nghĩa lý thâm sâu
nên it người tụng đến.
Vì
vậy, với quan điểm nêu lên những điều
thường thức để dễ tìm hiểu, ở
đây cũng chỉ tóm lược đại ý các kinh
thường tụng để có thể tùy căn cơ
từng người, từng sự việc chọn
lựa mà đọc tụng.
1/ Kinh A Di Ðà
Phật
thuyết kinh này là chỉ cho chúng sanh biết tại cõi Tây phương
có đức Giáo chủ mệnh danh là Phật A Di ÐÀ, cõi
nước của ngài có đủ mọi cảnh yên vui
sung sướng. Ai tụng kinh A Di Ðà cũng có thể được
Phật A Di Ðà tiếp đón về nơi Cực lạc,
nhưng điều cốt yếu trong kinh chỉ gồm
có một câu là:”nhất tâm bất loạn” nghĩa là
Phật dạy: từ một ngày cho đến bảy
ngày, làm thế nào để có được nhất tâm
nghĩa là châm châm chú chú vào việc nguyện cầu
khiến được trong lặng hoàn toàn không loạn
động thì người đó khi lâm chung sẽ
được đức Phật A Di Ðà cùng các vị thánh
chúng hiện ra trước
mắt, nếu người đó tâm không có chút gì điên
đảo lập tức được vãng sanh.
Ðức
Phât A Di Ðà còn phát nguyện tiếp dẫn chúng sinh kẻ
sống cũng như người thác, nếu ai niệm
danh hiệu Ngài đều được tiếp sang
tịnh độ.
Do
vậy, Kinh A Di Ðà có công năng siêu độ cho các
người quá cố. Ðiều chính là phải làm thế nào
cho được nhất tâm bất loạn, nếu không
luyện được hẳn hoi bất loạn thì cũng
phải có sự chí thành chi kinh, mới mong tự
độ và độ cho người khác được.
2/ Kinh Phổ Môn
Phổ
môn là một phẩm (phẩm thứ 25) trong kinh Diệu
Pháp Liên Hoa nói đến ngài Quán Thế Âm Bồ Tát cùng
những hạnh nguyện của ngài, ai nghe đến tên,
niệm đến danh hiệu thì ứng tiếng mà linh cảm.
Ngài
Quán Thế Âm Bồ Tát lại thường biến
hiện sắc thân thành tất cả các loại chúng sanh
để cứu độ cho các chúng sanh. Do vậy,
nếu ai mắc tai nạn, gập mọi trở ngại,
nhất tâm niệm tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ
Tát hoặc chuyên tụng kinh Phổ Môn sẽ giải
trừ được mọi khổ nạn.
Ðiều
cốt yếu là khi tụng kinh nầy phải thật
thành tâm và phải phát nguyện rộng lớn, làm việc
bố thí thì mới có hiệu lực.
3/ Kinh Dược
Sư
Kinh này, đức Phật chỉ
dạy cho ta mỗi khi đau ốm phải tìm thầy,
chạy thuốc chữa bệnh. Thêm vào đó một
phương pháp chữa bệnh linh nghiệm không kém,
đó là sức tin tưởng. Tụng danh hiệu
đức Ðông Phương Giáo Chủ Dược Sư
Lưu Ly Quang Vương Phật tức là cầu tìm
đúng thuốc chữa đúng căn bệnh của mình,
không tin những tà ma yêu nghiệt, những bọn thầy
pháp chuyên đem chuyện mê tín dị đoan chữa
bệnh khiến phải sa đọa vào vòng hoạnh
tử. Lại nữa, trong kinh Dược Sư khuyên ta
không được nghe sằng, tin nhảm làm bùa làm phép
lung tung, giết hại sinh vật cúng cấp thần linh,
ma quái. Nếu làm những chuyện như thế chỉ
khiến gia tăng tội lệ mà bệnh không những
không khỏi, đôi khi còn bị chết oan là khác.
Vậy
phươnh pháp tụng kinh Dược Sư là tăng
trưởng lòng tin chân chính của mình mà chữa bệnh
cho chính mình, đồng thời phải lo thuốc thang
chạy chữa và tránh những kẻ yêu ma lòe bịp cúng
thần tróc quỷ, mới mong bệnh hoạn mau lành.
Tụng
kinh này có công hiệu vì những lý do:
-Ðức
tin càng mạnh thì bệnh càng chóng khỏi.
-Tránh
điều mê tín dị đoan để khỏi bị
chết vì lầm thầy, lầm thuốc.
-Tụng
kinh tức là thực hiện phương pháp lắng
đọng tâm trí, tâm trí lắng đọng không khởi
lên dục vọng, phiền não, lo sợ, rầu buồn,
lẽ dĩ nhiên bệnh hoạn không do đâu mà phát sinh hay
nắng ra được.
-Tránh
giết hại các loài sinh vật tức là giảm bớt
tội khiên và cố nhiên đã được hưởng
phúc báo, dù có bệnh cũng mau lành mạnh.
Ðiều
cốt yếu là khi tụng kinh này tưởng nên theo
phương pháp “tự tha hổ trợ” nghĩa là dùng
sức mình tin tưởng và sức người giúp
đỡ, sức người tức là sự minh y
của ông thầy thuốc hiệp với sức kỳ
nguyện của những người tụng kinh thì
nhất định mau khỏi bệnh vậy.
4/Kinh Thủy Sám
Kinh này có ý nghĩa dùng sức sám
hối, cũng ví như lấy nước rửa sạch
mọi dơ bẩn. Kinh này sở dĩ được
trước thuật ra là do ngài Ngộ Ðạt Quốc
Sư khi được nhà vua trao cho chiếc sập
đàn hương, lại đối xử vô cùng trọng
vọng, ngài Ngộ Ðạt khởi lên một chút vọng
tâm nên liền gặp tai nạn, đầu gối thốt
nhiên mọc lên cái nhọt (mụt) như hình mặt
người. Sau nhờ có sư Tri Huyền chỉ cho
biết cách lấy nước nơi một giếng
khơi trong chốn am thiền lau rửa, cái nhọt
mặt người liền bật ra tiếng kể
lại chuyện oan khuất từ mười kiếp
trước vẫn hằng
theo dỏi để mong báo oán, nay vì ông Ngộ Ðạt
khởi lên dục vọng mà có nhịp trả oán, nhưng
nay ngài Tri Huyền đã chỉ dạy dùng nước giếng Tam Muội mà rửa thì
không dám mang lòng oán hận nữa.
Cũng
vì thế mà trong kinh kể ra những điều mà chúng
sanh thường hay mắc phải gây thành tội lỗi,
lại nói rõ cả những tội nào phải chịu báo
nào. Cách thức làm thế nào để tránh tội.v.v...do
đó mới đặt tên là Thủy Sám nghĩa là việc
sám tội cũng như
nước rửa hết mọi nhơ bẩn vậy.
Khi
tụng kinh này phải nên thành tâm hối lỗi, tất
cả những gì đã phạm thề quyết từ nay
chừa bỏ, điều thiện gắng làm,
điều ác tránh xa. Như thế là tiêu diệt tội
khiên của mình và do chỗ tâm mình thanh tịnh như
nước trong suốt có năng lực rửa tội
cả cho người khác nữa. Bởi ai nghe kinh mà
cũng hối lỗi tức nhiên đều trở về
nẽo thiện và làm việc thiện tức là tránh
hết ác nghiệp đó vậy.
5/ Kinh Ðịa Tạng
Kinh này thuật lại lời Phật
chỉ dạy cho các đệ tử biết nguyện
lực của một vị Bồ Tát vô cùng cao rộng:”
địa ngục vị không, thệ bất thành
Phật”nghĩa là địa ngục mà còn người,
ngài thề chưa thành Phật, vị đó là ngài Ðịa
Tạng Bồ Tát.
Cũng
do nguyện lực đó mà ngài Ðịa Tạng
thường cứu độ chúng sanh trong cõi ngục tù
tăm tối. Cho nên kinh này có công năng siêu độ cho
thất tổ, cửu huyền và tất cả chúng sanh
khổ ách.
Yếu
lý của kinh này là nhân nguyện lớn của Bồ Tát,
mình cũng phải phát tâm Bồ đề, tâm lặng
tức là thoát khỏi địa ngục, tụng kinh
cầu nguyện là lấy sức thần giao cách cảm
của mình linh ứng với những linh giác chưa
được siêu thoát, nhờ uy lực và thần lực
sẽ được siêu thăng. Cho nên tụng kinh
Ðịa Tạng có thể đưa người ở
chốn tam đồ lục đạo đến nơi
bát đức vậy.
6/ Kinh Báo Ân
Tức
là kinh Ðại báo Phụ Mẫu trọng ân, Phật
thuyết đến công đức sanh thành dưỡng
dục của các bậc cha mẹ, và dạy cho con cháu là
phải có bổn phận đền đáp công ơn sao cho
xứng đáng.
Kinh
này thường tụng vào các ngày giỗ chạp, hoặc
có việc hiếu. Ngươi tụng phải thề
nguyện từ nay về sau ăn ở cho phải
đạo đối với cha mẹ, đối với
các bậc tôn trưởng. Người trong gia đình nghe
kinh là phải giữ gìn: trên ra trên, dưới ra
dưới, một nhà hiếu thuận, thế cũng là
báo ân đó vậy.
7/ Kinh Lương Hoàng
Toàn
bộ kinh này là những lời sám nguyện giải
trừ mọi điều tội lỗi. Còn gọi là kinh
Ðại Sám. Nội dung kinh này khá dài, nguyên nhân trước
thuật kinh này là vì vua Lương Vũ Ðế xưa không
tin Phật pháp, chỉ tin ngoại đạo. Thuở còn
hàn vi, có vợ là Hy-thị, nhân sự ghen tuông mà tự
trầm mình dưới giếng. Ðến khi Lương
Vũ Ðế lên ngôi vua thì Hy-thị hóa làm con rắng mãng xà
quấy rối cung vi.
Thỉnh
khắp các hàng Thuật sĩ đến chú nguyện mà không
công hiệu. Sau có Tề Công Trưởng Lão dạy làm
đàn tràng sám nguyện cầu rửa tội khiên ác
độc nên nhờ đó Hy-thị hiện thân tạ
ơn là đã thác sinh. Từ đấy Lương Vũ
Ðế mới tin theo Phật pháp, ví vậy mà tập Kinh Sám
Nguyện này đặt tên là Lương Hoàng.
Cũng
vì tụng kinh này rũ sạch được mọi
tội lỗi nên nay thường tụng trong việc báo
hiếu cha mẹ hoặc ngày giỗ chạp gia tiên.
8/ Kinh Pháp Hoa
Gọi
cho đủ phải là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là một
bộ kinh đầy đủ nhất về lý thuyết
đại thừa Phật giáo, do đó khi Phật thuyết
kinh này, các bậc Tỳ kheo hoặc Cư sĩ không
đủ căn cơ đều phải rút lui.
Ðời
nay đều thích tụng và tin tưởng rằng
tụng kinh này được vô lượng công
đức. Tuy nhiên nếu
quan niệm là chỉ tụng thôi mà có công đức thì ai
cũng làm được cả. Phải nên có nhận
định tế nhị là: Khi Phật thuyết kinh Pháp
Hoa mà ai nghe cũng được thì hà cớ các hàng Tỳ
Kheo hay Cư sĩ không đủ căn hạnh lại
phải rút lui? Do đó ít nhất mình có tự phát khởi
tâm đại thừa, làm đạo Bồ Tát hay không?
Tụng kinh rồi có theo được chút gì như trong
kinh không? Nếu không thì tụng đôi khi chỉ thêm nghi
ngờ và thành luân chuyển mà thôi.
*Ðúng ra, đây chỉ là tóm lược
yếu chỉ của mỗi kinh để Cư sĩ
chúng ta có được một khái niệm tổng quát làm
đầu mối nhận định căn hạnh
của mình có thể làm được đến đâu, tín
hướng thế nào mà hành trì theo với ước
nguyện
Đăng nhận xét