Hộ niệm là
một việc làm vô cùng quý báu,tự tha đều lợi
lạc. Thiết nghĩ mọi cư sĩ Phật giáo nên
tìm hiểu rõ ràng và tích cực tham gia. Chúng ta có cơ
hội hành trì, tu học trong các buổi lễ từ hình thức:
ăn mặc, đi đứng, nói năng,sắp xếp
cho đến nội dung: kinh sách, tán tụng,hầu đạt
được trang nghiêm,thanh tịnh, giới luật và an
lạc.
Về phần độ
tha, như chúng ta đã biết ngày xưa đức
Phật đã dạy ngài Mục Kiền Liên nhờ
cọng lực của chư Tăng mới mong cứu độ
được mẹ. Ngày nay chúng ta dù không có được
thần lực mạnh như chư thánh tăng, nhưng
thiết tưởng với nguyện lực phàm phu tha
thiết chắc hẳn cũng phần nào ảnh
hưởng tốt đối với kẻ cầu độ,trong
tài liệu Tịnh độ xưa nay đều có xác tín.
Tuy nhiên muốn có
kết quả mỹ mãn chúng ta phải rõ từng sự
việc, để chuẩn bị hộ niệm chính
xác đứng đắng
I) Cầu an:
Mục đích là sám hối tội lỗi, dứt trừ
nghiệp chướng, hầu tránh mọi bệnh
hoạn, tai họa và nghiệp báo, để được
thân tâm an lạc, phước hụê trang nghiêm, đạo
tâm kiên cố, Bồ đề tăng trưởng.
Các trường hợp
cầu an: Khánh thành, an vị-Ðăng khoa, thi cử-Thành hôn,
vu quy, nhất là trường hợp đau ốm,tai
họa do nguyên nhân tội lỗi gây ra.v.v...
Lúc bấy giờ ta vận dụng hết lòng thành,
tắm gội thân tâm, tập trung tất cả điện
lực cầu nguyện bằng cách: Tụng kinh, niệm
Phật, trì chú, bái sám hồng danh.v.v...đối
trước Tam bảo. Chính nhờ sức mạnh của
tinh thần cầu nguyện này, mà giao cảm đến
chư Phật, Bồ tát sẽ phóng quang đến gia
hộ cho chúng ta sơm đạt được như ý
và hợp chánh đạo. Vì rằng Phật thương
chúng sanh như mẹ thương con; chúng sanh nhớ
Phật như con nhớ mẹ. Vậy mỗi lúc cầu
nguyện chúng ta cần phải thành khẩn và đầy đủ
đức tin, mới có sự cảm ứng gia hộ
của chư Phật và Bồ tát.
II)
Sắp lâm chung: Lúc một người bệnh
hoặc già yếu, sau khi tụng kinh, bái sám mà bệnh nhân
quá yếu,thầy thuốc tận tình cứu chữa, cho
biết sắp lâm chung.
Những người hộ niệm:--
1) Thân nhân bà con nên giữ thaí độ bình
tĩnh:
tụng kinh A Di Ðà và niệm Nam mô tiềp dẫn đạo
sư A Di Ðà Phật.
*Không nên dùng
thuốc trợ sinh kéo dài thời gian tắt thở làm cho
Thân Trung Ấm bối rối không định tỉnh.
Thể xác đau đớn, khó khăn trong việc siêu
thoát.
*Khi nghe không còn
cứu chữa được nữa, thường bỏ
mặc kẻ sắp lâm chung nằm một mình, đi lo
việc ma chay mai táng,đó là điều rất cấm
kỵ. Vì bây giờ thần thức kẻ lâm chung tuy
rất sáng suốt,nhưng bơ vơ, sợ sệt. Thân
nhân phải có mặt bên cạnh để niệm
Phật, khuyên răng, chỉ bảo lối đi cho
thần thức. Cố tránh gây sân hận, là một điều
dễ làm cho hương linh bị sa đọa.
2) Ðạo hữu, bằng hữu nên thành tâm
niệm Phật, tụng kinh A Di Ðà. Lưu ý nếu kẻ
lâm chung là đàn ông, người hộ niệm đứng
phía dưới chân. Nếu kẻ lâm chung là đàn bà,
người hộ niệm đứng phía trên đầu.
Khi kẻ lâm chung thở ra , đồng thanh niệm:
Nguyện sanh tây
phương tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi
phụ mẫu.
Hoa khai kiến
Phật ngộ vô sanh,
Bất thối
Bồ tát vi bạn lữ.
Khuyên bảo gia
quyến không nên bịn rịn, khóc lóc. Nên để tâm
niệm Phật tiếp dẫn là tốt hơn hết.
Ðể kẻ lâm chung không vì tình thương tham đắm
cảnh thế gian, chướng ngại cho việc vãng
sanh
Khi tắt thở
đến lúc nhập liệm tối thiểu là bốn
tiếng đồng hồ,mới được đụng
vào thân thể,tốt hơn cả nên để hai
mươi bốn tiếng. Vì nghiệp thức khi chưa
hoàn toàn bỏ thân xác, cảm thọ sự đau đớn
sinh ra sân hận phải đọa vào ác đạo
3) Một vị thầy:Tốt hơn hết là
nên mời một vị thầy để trợ niệm
tiếp dẫn và vận chưởng giúp đỡ siêu thăng
*Cách vận
chưởng, Tây Tạng gọi là Phowa
Sau khi hơi
thở đã tắt, nhưng thân thể chưa toàn
lạnh hẳn, thì cần đến gần bên trái
người chết mà gọi tên, niệm Phật vãng sanh, đánh
chuông và khánh không ngơi. Ðến khi toàn thân đều
lạnh chỉ còn nóng ở đầu và trán: chắc
người đã được sanh về tây
phương. Chỉ cần niệm Phật và đánh khánh,
chuông cho đến hết hơi ấm.
Nếu hơi ấm dồn vào chân: sa vào địa
ngục.
- đầu gối: sinh vào súc
sanh.
- bụng: đọa vào ngạ
quỷ.
- ngực: chuyển sanh vào nhân đạo.
- chân mày: sinh lên cõi trời.
Chỗ còn hơi
ấm cho biết nghiệp thức của kẻ chết
còn ở chỗ đương ấm, nên mời một
vị thầy,dùng phương pháp chuyển vận giúp cho
nghiệp thức chuyển lên đến đỉnh môn.
Trường hợp không tìm đâu ra được
một vị thầy, thì bất cứ ai, thân nhân hoặc
bằng hữu, thành tâm đem hết tâm lực chuyển
vận theo phương pháp như sau: Dùng hai bàn tay,ngang nhau,
úp trên chỗ ấm , cách da người chết độ
nửa tấc tây (50 phân).
Hai tay xoay
chuyển lên trán
Mắt châm chú vào
tay thầm tưởng nghiệp thức kẻ chết
phải theo tay mà trở lên
Miệng niệm
: Nam mô đại từ đại bi A Di Ðà Phật
Xin ngài đến
tiếp dẫn vong linh tên . . . . sẽ từ trên đỉnh
môn mà ra, sinh về thế giới cực lạc
phương tây, quyết định vãng sanh.
Như vậy đồng
một lúc cả ba yếu tố: tinh thần châm chú, tay
vận, miệng niệm. Nếu mỏi mệt,thay
người khác luân phiên, có khi suốt cả ngày, không nên
nghỉ nữa chừng. Phải làm đến lúc còn
lưu lại một chút hơi ấm trên đỉnh đầu
mới thôi.Như thế nghiệp thức của
người chết được gặp Phật và vãng
sanh. Người chú nguyện phải là một vị
thầy nghiêm minh giới luật, hoặc mời được
người tu niệm Phật lâu sẳn lòng từ bi thì
tốt hơn cả.
III) Cầu siêu:
Mục đích là sám hối tội lỗi cho người
quá vãng, hầu chuyển nghiệp nhân xấu ác của
người, khiến họ xa lìa quả báo đau khổ
, rời khỏi cảnh giới tối tâm đọa đầy.
Cầu cho thần thức người được
nhẹ nhàng, thảnh thơi, siêu sanh về nơi thế
giới tịnh lạc, chóng thoát luân hồi.
Vậy cầu
siêu là cầu cho người sau khi lâm chung; thời gian 49
ngày là quan trọng hơn cả, theo lý thuyết Phật
giáo khi chết tứ đại tan rã, thần thức (thân
trung ấm) chuyển từ kiếp này sang kiếp khác theo
nghiệp cảm đã tạo tác. Muốn được ra khỏi vòng luân
chuyển, tâm linh của người sống phải
ứng hợp với thần thức của người
chết để tạo ra một năng lực gọi
là” tự tha hổ tương” mới mong siêu thoát đến
chốn an vui. Muốn đạt được mục đích
này,điều tiên quyết là sự thành tâm và thanh tịnh
của quí vị hộ niệm “cầu độ” mới
có thể cảm ứng vơí linh giác của người
“được độ”. Theo Việt nam các ngày về sau
như : bách nhật, tiểu tường, đại
tường, húy kỵ vẫn
tiếp tục cầu siêu với sự ước
mong giải thoát. Gia quyến cần đặt vấn đề
cầu nguyện và hiếu sự lên trên, nên tránh việc
sát hại sanh linh, hoặc việc làm có tánh cách gây tội
lỗi. Cần nhất là người cầu nguyện
phải trai giới thanh tịnh, vận hết lòng thành
tập trung vào việc tụng kinh, niệm Phật, sám
hối để cầu
nguyện. Thân nhân
của người quá vãng cần làm thêm những
việc từ thiện: phóng sanh, bố thí, cúng dường,
ấn tống kinh điển.v.v. . .
Trong kinh Phật
dạy: Tụng niệm và làm các việc phước
thiện đem công đức ấy hồi hướng cho hương linh, cũng
như gởi lương hướng cho người đi
xa vậy. Người đã siêu rồi mau được
Phật thọ ký; Người ở các cõi trên mau lên các địa
vị cao hơn, hào quang càng sáng tỏ. Người đang
sa đọa vào ba đường ác thì cũng nhờ các
công đức ấy mà siêu sanh tịnh độ hay thoát
khổ lên cõi trời, cõi người.v.v. .
Ðó là ý nghĩa
cầu siêu và việc làm của người còn đối
với kẻ mất vậy.
Đăng nhận xét