I Theo truyền thống DÂN TỘC:
Việc kết hợp thành vợ
chồng, quy luật luân lý của dân tộc Việt Nam muốn
bắt buộc phải sống chung với nhau trọn đời.
Hai bên cần phải hiểu biết lẫn nhau. Nhân đó
cổ nhân đặt ra lễ nghi trang trọng để ràng
buộc nhau về mặt tinh thần, ngoài những ràng buộc
về giáo luật và pháp luật.
Ngày trước gồm có 6 lễ:
(Sách xưa có câu : “Lục lễ bất bị, trinh nữ
bất xuất”.
1/ Nạp thái(chạm ngõ,
dạm hỏi): Ðến nhà gái ngõ ý muốn chọn một
người con gái trong gia đình ấy.
Sau khi đôi
trai gái gặp nhau có ý định đi đến việc
hôn nhân, người mai mối hẹn ngày đưa cha mẹ
nhà trai, chú rể và lễ vật (cau trầu) đến nhà
gái xin đính ước. Từ đây đôi bên giữ tình
giao hảo, trao đổi tin tức (tên tuổi, gia thế,
sự nghiệp) chứ chưa có trách nhiệm hẳn về
hôn nhân.
2/ Vấn danh: Nhà trai hỏi
tên tuổi người con gái. Rõ ràng hơn là muốn biết
thân thế và sự nghiệp của người con gái.
3/ Nạp cát: Xác nhận
nhà trai đã ưng thuận về hôn nhân giữa đôi
trai gái. Vì đã có những thuận lợi cần thiết
và thích ứng ( quẻ tốt, hạp tuổi).
4/ Thỉnh kỳ: Xin nhà
gái ấn định ngày làm lễ cưới. Ngày trước
chú trọng đến ngày tốt xấu, hạp hay cấm
kỵ, thường nhà trai cho ngày đã chọn,để
nhà gái kiểm soát lại.
5/ Nạp tế: Ðưa sính
lễ tới nhà gái.
Không rõ các cổ
lễ ấy bắt đầu tứ bao giờ, nhưng
qua thời gian lưu dụng, các lễ vấn danh, nạp
cát, thỉnh kỳ, nạp tế được thu gọn
làm một lễ gọi là “ăn hỏi”: Người mai mối
đưa cha mẹ đàng trai, chú rể, mấy người
họ hàng thân thuộc, với lễ vật (trầu rượu,
bánh mứt, nhẫn hỏi, nữ trang) đến nhà gái, xin
làm lễ cáo gia tiên. Từ hôm nay được tuyên bố
ưng thuận hứa hôn giữa đôi trai gái với họ
hàng và bạn bè. Kể từ nay hai nhà phải có nghĩa vụ:
thăm viếng, quà biếu mỗi dịp lễ tiết.
Và có trách nhiệm bảo vệ sự hứa hôn, một bên
có lỗi với việc hôn phối, bên kia có quyền khiếu
tố trước tòa, đòi bồi thường, ít nhất
là phần danh dự.
6/ Thân nghinh (lễ cưới):
Lễ đón dâu về nhà chồng.
a/ Xin dâu (xin giờ): Bà mẹ
chồng (hay người đại diện) đem một
khay trầu rượu vào nhà gái vài giờ trước buổi
lễ để cáo gia tiên gọi là lễ xin dâu hay lễ
trình giờ.
b/ Ðón dâu ( lễ cưới);
Một người đàn ông vui vẻ, hoạt bát đứng
đầu ngõ đón chào họ nhà trai.
Ðoàn họ
trai gồm có: Một cụ già (tính tình hiền lành, vợ
chồng song toàn, nhiều con cháu) đi trước, cầm
một bó hương hay một đỉnh trầm, tục
gọi là Tơ Hồng (nay thường thay bằng một
bó hoa). Kế tiếp là đoàn dẫn lễ vật như
hai lồng đèn, hai lọng che, mâm cau trầu, rượu,
bánh mức, ngỗng lợn (cau lồng, rượu ché, heo
đóng cũi, ngỗng mặc áo), một quả hộp trầu
têm (trầu đã cắt ra điểm vôi vào gói lại, cau
bổ ra 12 miếng) và một quả hộp nữ trang, nhẫn
cưới (hai quả này phải nhờ người song
toàn, hiền hậu dẫn lễ), một khay trầu rượu
(chỉ năm miếng trầu) đi với chủ hôn, bất
cứ một việc gì phải đưa khay trầu ra trước
(nên nhớ thay cau trầu rượu mới mỗi lễ),
một kiệu hoa (nay là xe hoa). . . Chú rể khăn áo chỉnh
tề, cùng với các người trong họ đi đón dâu
(số lượng được ấn định trước,
thường được chọn vợ chồng song toàn,từng
cặp chẵn). Sau khi mọi người vào vị trí (an
tọa), đại diện nhà trai (chủ hôn hay ông mai) mở
lời: mục đích buổi lễ, trình lễ vật,
xin được khấu lễ gia tiên. Nhà gái: nhận lời,
đệ nạp lễ vật lên án thờ, cáo gia tiên, mời
đại diện nhà trai làm lễ, cho cô dâu chú rể làm lễ
(kể cả nhà thờ tổ, họ nội họ ngoại
của cô dâu). Việc mang nhẫn cưới và nữ
trang, ngày trước được kiểm nhận kỹ
càng và mang vào buồng riêng cho cô dâu, ngày nay thường được
thực hiện ngay tại sảnh đường. Xin cho
cô dâu chú rể lễ mừng tuổi ông bà cha mẹ vợ
(ngày trước phải lạy sát đất, thời vua
Bảo Ðại cho phép vái 3 vái với người sống, có
gia đình cho miễn lễ). Tiếp theo cô dâu chú rể được
đưa đi chào mừng bà con họ hàng đang dự lễ.
Gặp mỗi người đều nhận được
lời chúc phúc, khuyên bảo, và quà tặng. Sau đó nhà gái mời
hai họ nhập tiệc.
c/ Ðưa dâu: Khi xong tiệc,
đến giờ rước dâu, đại diện nhà
trai (trầu rượu) trình bày với nhà gái xin đón dâu.
Ðoàn đưa
dâu, họ gái gồm có: Một cụ già cầm bó hương
hay đỉnh trầm (nay là bó hoa) đi trước, kế
tiếp là bà con họ hàng nhà gái dẩn cô dâu, theo cô dâu là phụ
dâu, ngày xưa có một cô theo giúp đỡ mang vật dụng
áo quần. Thông thường cha mẹ vợ không đi đưa
dâu.Khi đến nhà trai, ngay ngõ đã có người bưng
khay trầu mời khách nhà gái. Bà mẹ chồng đón dâu tại
cửa đưa vào nhà, cô dâu được đưa về
phòng nghỉ mệt trong chốc lát trở ra lần lược
làm lễ: Lạy gia tiên, nhà thờ bên cha mẹ chồng, làm
lễ Tơ Hồng (đặt bàn trở mặt ra ngay trước
sân, với bài văn tế như sau “Việt nam , năm .
. . tháng . . . ngày . . . Chủ hôn . . . cưới vợ cho con
trai (trưởng) tên . . . , lấy (thứ) nữ của .
. . , tên là . . . làm vợ. Nay nhân chọn được giờ
tốt, kính dùng hương hoa, tửu quả, thứ phẩm
chi nghi, kính dâng lên: Chưởng quản việc hôn phối
ở nhân gian, Nguyệt Lão Thiên Tiên. Kính thưa: Ðạo vợ
nghĩa chồng, Muôn phúc ở trong, Nay gặp ngày tốt, Xin
tạc chữ Ðồng, Chuốc chén rượu trong, Kính dâng
lễ bạc, Nguyệt Lão ngửa trông, Dám xin Ngọc Giá,
Soi thấu tấm lòng, Trúc mai sum họp, Vợ vợ chồng
chồng, Trăm năm đôi lứa, Dòng dõi ngày đông. Cẩn
cáo”. Mừng tuổi ông bà cha mẹ chồng, chào mừng họ
hàng ( như bên nhà gái). Sau hết nhà trai mời hai họ nhập
tiệc. Khách mời đi họ không được bỏ
ngang về trước, vì như thế không hên cho đám cưới.
Hợp cẩn:
tối hôm cưới, khi nhập phòng , người chồng
lấy khay trầu tế Tơ Hồng trao cho vợ một
miếng, mình một miếng; rót một ly rượu uống
chung mỗi người một nửa, gọi là lễ hợp
cẩn
Nhị hỷ,
Tứ hỷ: Cưới được hai ngày, vợ chồng
đem nhau về thăm bên nhà vợ gọi là nhị hỷ,
nếu đường xa có thể cách bốn ngày gọi là
tứ hỷ.
Lệ nộp
cheo: Khi đám cưới, bên họ nhà trai phải nộp
tiền cheo cho bên họ nhà gái. Có nhiều loại cheo (làng,
họ, xóm, giáp) tùy theo khoán ước của địa phương.
Mục đích là giới thiệu với địa phương
cô gái lấy chồng. Ngày xưa việc nộp cheo là một
sự bắt buộc, mặc dầu số tiền chỉ
là tượng trưng thôi. Ngoài ra còn nhiều tục lệ
đặc biệt được áp dụng tùy địa
phương (có tính cách di đoan, cổ hủ).
Hiện nay lưu
hành 3 lễ chính: Dạm hỏi, lễ hỏi, Lễ cưới.
Tùy theo địa phương, mức độ sinh hoạt
xã hội, tài chánh . . . mà áp dụng, bày biện lễ cưới
cho hài hòa vui vẽ, giữ gìn bản sắc dân tộc.
II Theo truyền thống PHẬT GIÁO:
Ngày xưa ở
Ấn Ðộ Thái tử Tất Ðạt Ða kết duyên cùng công
chúa Da Du Ðà La theo phong tục và lễ nghi hoàng triều, có
con trai là La Hầu La, ngài mới xuất gia. Sau khi thành đạo,
đệ tử của ngài có 4 chúng, hàng xuất gia có hai: Tăng,
Ni có một đời sống độc thân phạm hạnh
đầy đủ giới luật. Hàng tại gia có hai: Ưu
Bà Tắc (thiện nam), Ưu Bà Di (thiện nữ) giữ
tam quy, ngũ giới có đời sống bình thường,
yểm trợ tăng đoàn giáo phẩm. Do đó viêc lập
gia đình cũng được ngài nhắc nhở, giáo huấn.
Như bổn phận của mỗi người: chồng
vợ, cha con, anh em, thầy trò đều có kinh để
lại. Ðặc biệt về người vợ, có kinh:
1/ Kinh bảy loại vợ:
‘’ Chính tôi được nghe, một buổi sáng nọ, Ðức
Phật đến dự lễ cúng dường tại nhà
của cư sĩ Cấp Cô Ðộc. Khi thân hành tới nơi,
Ðức Phật thoáng nghe những lời chửi bới ồn
ào vọng lên từ sau nhà. Ngài hỏi cư sĩ Cấp Cô
Ðộc rằng: - Này cư sĩ, trong nhà có việc gì mà ồn
ào như thế ?
Cư sĩ Cấp Cô Ðộc
thẹn thùng cung kính thưa rằng: - Bạch Ðức Thế
Tôn, đó là sự ngỗ nghịch lớn tiếng của
nàng dâu của con, Su-cha-ta. Tuy là dâu trong gia đình, nhưng nó
ỷ vào sự giàu có của gia đình cha mẹ ruột nên
nó thất lễ, không chịu vâng lời, không biết cung
kính cha mẹ chồng. Bạch Ðức Thế Tôn, ngay cả
chồng nó, nó cũng xử sự thô lỗ và vô lễ như
vậy. Ngoài ra, nó cũng không biết cung kính đảnh lễ
những Bậc Ðạo Sư. Dù biết Thế Tôn thân lâm,
nó cũng không tỏ ra trọng nể, vẫn ồn ào lớn
tiếng nãy giờ, Kính xin Thế Tôn từ bi cảm hóa nó.
Lúc bấy giờ
Ðức Phật cho gọi nàng dâu ra và dạy rằng: - Này
Su-cha-ta, có bảy loại vợ trên đời này. Con hãy chín
chắn suy nghĩ, so sánh và trả lời cho Như Lai biết
con thuộc loại vợ nào:
- Một là vợ như
kẻ sát nhân
- Hai là vợ như người
ăn trộm
- Ba là vợ như chủ
nhân
- Bốn là vợ như
người mẹ
- Năm là vợ như
người em
- Sáu là vợ như người
bạn
- Bảy là vợ như
người hầu.
Với gương
hạnh hiền từ, cứu độ của Ðức Phật,
nàng dâu bắt đầu tỏ ra vâng phục rồi lễ
phép thưa:
- Bạch Ðức Thế Tôn, lời dạy của
ngài quá ngắn gọn, con không thể hiểu được.
Kính xin ngài từ bi chỉ dạy cặn kẽ thêm.
Lúc ấy, Ðức
Phật ân cần dạy như sau:
- Một là, người
vợ nào có tâm địa hiểm độc, hai lòng không
chung thủy trong hôn nhân, bỏ rơi chồng mình, quan hệ
bất chính với các đàn ông khác chỉ vì choáng ngộp
trước sự giàu có hay vẻ bề ngoài của họ,
khinh bỉ chồng và tính tình hiếu sát. Người vợ
như vậy, Như Lai gọi là loại vợ sát nhân.
- Hai là, người vợ
nào không chung lo kinh tế gia đình, trái lại còn tiêu xài
hoang phí tài sản hợp pháp của chồng tạo ra. Người
vợ như vậy, Như Lai gọi là loại vợ trộm
cướp.
- Ba là, người vợ
nào sống ỷ lại, lười biếng, không có lời
từ ái, nhu hoà với chồng mà chỉ biết phát ngôn thô
tháo, lấn lướt chồng. Người vợ như
vậy Như Lai gọi là vợ chủ nhân.
- Bốn là, người
vợ nào biết thương yêu chăm sóc, giúp đỡ
chồng, biết cách giữ gìn và làm giàu tài sản của
chồng như một người mẹ lo lắng chu tất
cho con cái. Người vợ như vậy, Như Lai gọi
là loại vợ như mẹ.
- Năm là, người vợ
nào thùy mỵ, đoan trang, khiêm tốn, biết chiều chuộng
và thuận phục chồng mình như đối với một
người anh trong gia đình. Người vợ như vậy,
Như Lai gọi là loại vợ như em.
- Sáu là, người vợ
nào luôn luôn niềm nở, vui vẻ hoà thuận với chồng
như thể khi hội ngộ một người bạn
thân từ lâu mới gặp lại. Luôn giữ tiết hạnh
và thủy chung với chồng. Người vợ như vậy,
Như Lai gọi là loại vợ như bạn.
- Bảy là, người
vợ nào luôn mềm mỏng, không nóng tánh, không sân hận,
giận dỗi. Dù bị chồng đối xử không đẹp
nhưng vẫn nhường nhịn, không tỏ thái độ
lỗ mãng, lớn tiếng. Trái lại còn biết tùy thuận
để khuyên răn và chinh phục chồng mình. Người
vợ như vậy, Như Lai gọi là loại vợ như
người hầu.
-Này Su-cha-ta, trong bảy
loại người vợ mà Như Lai vừa nói, ba hạng
đầu là loại vợ như sát nhân, như những
người bất hảo, do đó con nên xa tránh. Những
hạng vợ như vậy do sống không giới hạnh,
ác khẩu và vô lễ, sau khi qua đời phải sanh vào cõi
xấu. Bốn loại vợ sau là đáng tôn kính và noi theo.
Ðó là vợ như mẹ, vợ như em, vợ như bạn
và vợ như người hầu. Những hạng vợ
này khi sống thì tạo ra hạnh phúc cho gia đình và con cái;
khi qua đời thì được sanh vào cõi lành.
Nghe
Ðức Phật ân cần giáo dục, nàng dâu của cư sĩ
Cấp Cô Ðộc tỏ ra ân hận và thành tâm sám hối. Nàng
phát nguyện sẽ chung sống và phụng sự chồng
với tư cách như người hầu. Từ đó,
gia đình của cư sĩ Cấp Cô Ðộc trở nên đầm
ấm, an lạc và hạnh phúc thật sự.
Nam
mô Bổn Sư Thích ca Mâu ni Phật. (3 lần, 3 xá)
2/ Kinh người
vợ mẫu mực: “ Chính tôi được nghe, lúc Ðức
Thế Tôn còn lưu trú tại vùng Ba-ga thì sự việc này
xảy ra. Cha và mẹ của Na-ku-la là một trong những
cặp vợ chồng giàu có nhất ở vùng này. Họ cũng
còn là các Phật tử thuần thành, gương mẫu. Càng
về già, cha của Na-ku-la càng lâm trọng bệnh. Một
hôm nọ, bệnh của ông trở nên ngặt nghèo hơn
nhưng vợ ông vẫn bình tĩnh và khích lệ chồng đúng
tinh thần chánh pháp.
-Anh thương yêu của
em, chúng ta là đệ tử của Ðức Thế Tôn, chớ
rời bỏ xác thân này với một tâm hồn còn đầy
luyến ái, vì đây là nghiệp cuối đời không tốt
cho sự tái sinh. Thế Tôn luôn quở trách điều này.
- Anh thương yêu của
em, người hãy an nhiên mà ra đi, đừng có bận lòng,
lo lắng: “Vợ ta sẽ không đủ sức nuôi dưỡng
các con và không thể xoay sở nổi cho gia đình” Xin anh
chớ có lo lắng như vậy. Về phần mình, em sẽ
cố gắng dệt vải nhiều hơn, chải lông cừu
nhiều hơn. Em có thể thay thế anh nuôi nấng và giáo
dục cho con cái nên người. Em sẽ lo chu tất cho
gia đình mình.
- Anh hương yêu của
em, anh chớ lo lắng: “Vợ ta sẽ bước thêm một
bước nữa, sẽ tái giá với người khác”.
Trong suốt bao nhiêu năm chúng ta chung sống, anh đã dư
biết tiết hạnh của em như thế nào rồi.
Em sẽ giữ tiết hạnh ấy cho đến suốt
đời. Xin anh chớ có ra đi với một tâm hồn
còn đầy ái luyến. Thế Tôn luôn quở trách điều
đó.
- Anh thương yêu của
em, xin chớ có lo lắng: “Vợ ta sẽ không tiếp tục
vâng giữ giới hạnh đầy đủ, sẽ không
còn tu tập, sẽ không thể đi vào và sống trong chánh
pháp của Ðức Thế Tôn.” Xin anh hãy an tâm, khi nào em còn là đệ
tử của Ðức Thế Tôn thì khi đó em sẽ còn vâng
giữ, tu tập, và sống với chánh pháp.
- Anh thương yêu của
em, đó là những điều tâm huyết của em mà bản
thân anh cũng đã thừa biết trong những năm tháng
chúng ta chung sống hạnh phúc bên nhau, em xin nhắc lại
để anh an tâm. Nếu có điều gì nghi vấn, anh có
thể cho người đến thưa hỏi Thế Tôn,
hiện nay Ngài đang lưu trú ở vùng Ba-ga. Xin anh hãy an
nhiên dù có phải ra đi. Chớ để tâm tư bị
vẩn đục bởi những lo lắng, ái luyến
trong giờ phút quan trọng này.
Nghe
những lời nhắc nhở chân thành, đầy thương
mến của vợ, sức sống của ông dường
như trỗi dậy hơn bao giờ hết. Ông toát mồ
hôi, cảm thấy thoải mái lạ thường và biết
rằng mình vừa thoát qua cơn bệnh trầm kha. Ông vô
cùng cảm động và sung sướng. Vài hôm sau, ông và vợ
thân hành yết kiến Ðức Thế Tôn, bày tỏ niềm
hạnh phúc của mình. Sau khi nghe ông trình bày, Ðức Phật
liền dạy rằng: - Này gia chủ, thật là một
diễm phúc cho ông được vợ khéo khích lệ, nhắc
nhở trong lúc lâm trọng bệnh. Ông hãy an tâm. Những lời
của nữ gia chủ, vợ ông đều đúng với
những gì Như Lai đã dạy. Nữ gia chủ, mẹ
của Na-ku-la là một người vợ lý tưởng.
Khi
nghe Ðức Phật xác tín và tán thán, các cập vợ chồng
có mặt lúc đó đều vui mừng và phát nguyện sống
vì hạnh phúc cho nhau ở đời này và đời sau.
Nam
mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật (3 lần, 3 xá).”
***
Phật giáo
vào Việt Nam chủ yếu là con đường giải
thoát, cứu khổ. Việc hôn lễ trong dân gian không có gì
trở ngại với niềm tin tôn giáo. Do vậy sau mỗi
hôn lễ theo truyền thống dân tộc, các tín hữu thường
về chùa làm lễ cầu an gọi là lễ “hằng thuận”.
Ngày nay vì nhu cầu cuộc sống không có thì giờ tổ
chức nhiều lễ lược, phần đông muốn
kết hợp tổ chức đám cưới tại chùa.
Quý thầy cũng đã hoan hỷ giúp đỡ tín hữu
hoàn thành hôn lễ. Tuy nhiên mỗi chùa, mỗi thầy làm
theo thanh quy riêng của chùa mình nên chưa có đồng nhất.
Nhưng một hôn lễ tại chùa thường được
diễn tiến như sau:
Vân tập trước
sân chùa hay sau nhà Tổ, hai họ:
nhà trai bên trái, nhà gái bên phải. Cách ăn mặc, sắp xếp
thứ tự theo truyền thống dân tộc, tuỳ nghi
không bắt buộc, thông thường: cô dâu, chú rễ, cha
mẹ, bà con, bạn bè. Tất cả vào chánh điện, đứng
hai bên đối diện nhau, cô dâu chú rể đứng ở
giữa, thầy phụ lễ (hay một cư sĩ trong
chùa) hướng dẫn cô dâu chú rể đi thỉnh sư
quan lâm chánh điện cử hành hôn lễ. Khi đến Tăng
đường, cô dâu chú rể nghiêm chỉnh vái chào, (đọc)
tác bạch. Sư hứa khả (nhận lời). Lạy
hay vái chào, bắt đầu thỉnh sư: Một người
bưng khay lễ (hoa và đèn), một người đánh
khánh dẫn, Tăng đoàn thông thường 4 Sư (có lọng
che), đàng sau là cô dâu chú rể. Khi thầy vừa đến
chánh điện mọi người chấp tay niệm Phật
nghênh tiếp. Thầy tiến thẳng lên pháp tòa, cô dâu chú rể
vào vị trí ấn định (giữa chánh điện). Ðằng
sau hoặc hai bên là phụ dâu và phụ rể.
Lễ chính
thức:
1/ Ba hồi chuông trống Bát Nhã chấm
dứt, lên đèn,dâng hương cúng Phật bằng một
thời kinh ngắn :
“- Nguyện
hương: . . .
- Kỳ nguyện: Tư thời
Việt Nam quốc, . . . cung tựu . . .tự (chùa), đăng
lâm bảo điện, cung đối Vạn đức Từ
dung, tu hương thiết cúng. Kiền thỉnh Tăng già
phúng tụng huyền văn, chuyên vì lễ tân hôn kỳ phước
chi sự.
Kim thiện
tín Phật tử: Nam chủ hôn tánh . . .Nữ chủ hôn tánh
. . .hiệp tín chủ đẳng.
Thiết niệm:
Thiện tín đẳng, thân sanh tử nữ, tánh: (tên của
tân lang và tân giai nương) sanh cư Dục giới, nghiệp
hệ túc duyên, hiệp ưng nghi thất nghi gia, thành liễu
hữu tình quyến thuộc, hoàn nguyện đống tu đồng
giải, kỳ quy Vô thượng Bồ đề. Tư
giả: thời duy ngoạt, tiết xuân (ha, thu, đông) thiên.
Thanh tịnh hương hoa, hiển mật viên chi diệu
vị, trang nghiêm phạm võ, phần giới định chi
chơn hương, bái bạch Tam bảo Từ tôn, chứng
minh gia hộ. Nam mô chứng minh sư Bồ Tát .
- Ðảnh lễ:
Chí tâm đảnh lễ . . .
- Tán: Dương
chi . . .
- Tụng: Ðại
bi . . .
- Bát nhã . . .
- Tiêu tai thần
chú . . .
- Nguyện
trú kiết tường . . .
- Hồi hướng:
Hằng thuận công đức thù thắng hạnh . . .
- Tân hôn phục
nguyện: Cung văn, trí quang tịch chiếu, vĩnh vi tam
giới chi đạo sư, bi nguyện hoằng thâm, phổ tác tứ sanh chi từ
phụ. Ðơn tâm củng bắc, tế thủ hòa nam. Thượng
lai xưng dương Phật hiệu, phúng diễn tôn kinh,
tập thử công đức, chuyên vì tín chủ Phật tử,
tân hôn lễ kỳ phước sự.
Phục nguyện:
quảng thùy tỷ hộ, thường giáng trinh tường,
bảo tân hôn cầm sắc hòa hài, niên niên hưởng vô biên
phước quả. Ðạo đại chúng vô nhơn vô ngã,
sanh sanh hoằng bất diệt pháp môn.
Phổ nguyện
: Thọ miên miên viễn, hưởng bá tuế chi hà linh, pháp
giới hữu tình, tề thành Phật đạo
Nam mô A Di Ðà
Phật.
- Tam tự
quy. . .
2/ Thầy
ban một thời pháp (giảng hay đọc theo lời
kinh). Ðơn cử một Huấn Thị (bài giảng):
Nam mô A Di Ðà Phật.
Hôm nay, ngày lành
tháng tốt, hai cháu cùng về chùa làm lễ Phật; chư
Tăng và thân nhân của hai cháu ở trước Phật đài
làm lễ cầu nguyện Phật, Bồ Tát gia hộ cho đời
sống của hai cháu được luôn luôn và vĩnh viễn
an lành.
Bổn phận
làm cha mẹ, trông con khôn lớn, đến tuần cập
kê, định đôi bạn, lựa chọn nhà có đức
hạnh nhân từ, con hiền cháu thảo, để gây dựng
hạnh phúc cho gia tộc, duy trì giòng giống con Lạc cháu
Hồng.
Vậy, muốn
lập nên gia nghiệp với đời, cần phải có
chồng có vợ, đồng ưu cộng tác, trên thuận
dưới hòa, thì chắc chắn gia nghiệp được
thành tựu. Nên sách có câu: “Phu phụ hòa gia đạo thành”,vợ
chồng đồng một lòng thì dù biển đông tát cũng
cạn. Vậy, hai cháu làm sao ăn ở cho có nhân, có nghĩa,
có đức, có hạnh; chồng hòa vợ thuận thì đường
đời của hai cháu sẽ được vinh quang. Lại
muốn xứng đáng là người Phật tử, trong đời
sống hàng ngày cuả hai cháu, phải tôn trọng danh dự
nhau, nhắc nhở nhau. Không nên va chạm tự ái nhau. Luôn
luôn nói lời chơn thật, không bao giờ lừa dối
nhau, lúc nào cũng phải trung thành với nhau, phải nghiêm
khắc lấy mình mà khoan dung cho bạn.
Ngoài ra, phải
tôn kính cha mẹ và các bực trưởng thượng, thương
yêu và nâng đỡ cho đàn em, nhất là góp phần phụng
sự Tam Bảo.
Giờ đây,
thầy xin nhắc nhở hai cháu để biết bổn
phận mà làm. Như trong kinh Phật đã dạy:
-Bổn phận
vợ đối với chồng nên như thế này: Luôn
luôn phải kính yêu và hòa thuận với chồng. Khi chồng
ra đi và lúc trở về, vợ phải đón đưa
niềm nở. Khi nào chồng có nóng giận nặng lời,
vợ không nên bừng mặt cãi lẫy, làm cho mất vẻ
thuận hòa, có khi phải rã rời giềng mối. Khi nào
chồng có lời khuyên dạy chánh đáng, vợ phải
vâng theo. Luôn luôn phải trung thành với nhau, giữ gìn tiết
hạnh, không được ngoại tình. Ðó là bổn phận
vợ đối với chống.
-Bổn phận
làm chồng đối với vợ phải nên như thế
này: Khi vợ ra đi và lúc trở về, chồng phải đón
đưa niềm nở. Phải ăn uống có giờ
khắc, để cho vợ khỏi phải phiền lòng,
vì nấu nướng không chừng mực. Phải tùy phận
nghèo, giàu của mìnhcho vợ được mua sắm quần
áo và đồ trang sức vừa theo sở thích, không nên hẹp
lòng làm trái ý vợ. Phải tin cậy vợ mà phó thác cho công
việc nhà. Không được sanh tâm tà vạy, sớm mận
tối đào, làm cho vợ ghen tương sầu khổ. Ðó
là bổn phận làm chồng đối với vợ.
-Bổn phận
làm dâu con đối với cha mẹ chồng nên như thế
này: Phải có lòng hiếu kính cha mẹ, tùy thuận lời
cha mẹ dạy bảo, không được cãi lại. Phải
ngủ sau dậy trước, lo cơm nước cho chu đáo.
Phải làm công việc nặng nhọc trong nhà cho cha mẹ.
Phải luôn luôn nhớ đến công ơn cha mẹ sanh thành
dưỡng dục chồng mình, mà bổn phận làm dâu
con có trách nhiệm nối dòng dõi cho gia nghiệp chồng.
Khi cha mẹ chồng có đau ốm, làm dâu con phải chăm
nom thuốc thang, thay đổi thức ăn uống, cầu
cho cha mẹ chóng lành khỏi, để trong nhà được
an vui. Ðó là bổn phận làm dâu con đối với cha mẹ
chồng.
-Bổn phận
làm con rể đối với cha mẹ vợ nên như thế
này: Phải có lòng kính yêu cha mẹ vợ như cha mẹ mình.
Có mặt hay không có mặt cha mẹ vợ, không nên có một
lời bất bình hoặc bất kính. Phải nhớ công ơn
cha mẹ vợ, có công sanh thành dưỡng dục vợ mình,
coi như vàng ngọc mà đem ban cho mình. Khi cha mẹ vợ
cần đến việc gì nhờ con rể, hãy vui vẻ
sẵn sàng, không sợ nhọc mỏi. Ðó là bổn phận
làm con rể đối với cha mẹ vợ.
Vậy có mấy
lời thay mặt chư Tăng, thầy xin khuyên hai cháu nhớ
gắng ghi mà thực hành thì sẽ được vui vẻ
suốt đời, bá niên giai lão để nối truyền
gia nghiệp, được hiển tổ vinh tông, làm cho
gia tộc sum vầy, vinh vang cho hai họ.
3/ Cho cô dâu chú
rể đọc 5 lời nguyện sống y chánh pháp. . .
4/ Thầy
trao nhẫn cưới: (Bước ra trước cô dâu chú
rể, cầm hộp nhẫn).
-Ðây là hai bảo
vật: tượng trưng cho sự bền chắc, kiên
cố; Có đặc tính sáng suốt, tốt đẹp. Thầy
trao cho hai cháu, mong cho hai cháu được đạo tâm kiên
cố. Tốt lành trong hành vi, ngôn ngữ; sáng suốt trên đường
đời cũng như trên đường đạo.
-Nầy hai cháu luôn nhớ chữ
“NHẪN” suốt hành trình bên nhau.
(cô dâu chú rể nhận
nhẫn mang vào cho nhau,thầy có thể cho cô dâu chú rể vái
chào nhau theo nghi thức).
5/ Cha mẹ đôi
bên khuyên bảo,trước sự chứng kiến của
thầy. Thầy có thể cho cô dâu cú rể lạy tạ ơn
cha mẹ.
Ngoài ra, hoàn cảnh
cho phép muốn tổ chức trang trọng hơn: Tụng
kinh Dược Sư trước lễ, vào lễ có đoàn
dâng hoa cúng Phật, có múa lân chào khách và chúc mừng đôi tân
lang, trai Tăng cầu phúc, tiệc chay tại chùa để
bà con có dịp hàng huyên chúc tụng. Trong những năm gần
đây việc tổ chức đám cưới tại chùa
khá phổ thông không những ở trong nước mà ở
nước ngoài, hai bên trai gái khác quốc tịch vẫn được
đưa đến chùa làm lễ thành hôn, có kết quả
tốt đẹp trong cuộc sống lứa đôi.
Đăng nhận xét