Một nghi
thức tiễn biệt người quá cố theo truyền
thống Phật giáo Việt Nam qua các lễ lược như
sau:
1- Trị
quan nhập liệm: Một người mất (chết),
trút hơi thở cuối cùng. Sau đó ít nhất là 4 giờ,
tốt hơn hết là sau 24 giờ, được tắm
rửa sạch sẽ, đưa vào một cái hòm gỗ (quan
tài) bằng một nghi thức như sau: Dùng một chén nước
trong, một cây đèn nến (sáp) gắn vào một cái cây gác
trên một góc hòm. Vị gia trì sư dùng tam mật tương
ưng (tay kiết ấn, khẩu đọc thần chú, Ý
quán tưởng Phật) tẩy sạch quan tài và vật dụng
tẩm liệm. Ðưa thi hài vào quan tài. Thi hài thường được
mặt một chiếc áo Quan Âm (mền Quang Minh). Theo cổ
tục có nơi còn bỏ gạo hay vàng ngọc vào miệng
thi thể.
2- Phục hồn:
Thiết lập một bàn thờ Linh có linh ảnh, bài vị,
bát nhang. Thỉnh vong linh an vị, để cho thần thức
định tỉnh nhận rõ sự việc đang phải
lìa thể xác. Vì theo quan niệm thần thức của người
mất lúc bây giờ đang bơ vơ, sợ sệt, chưa
ý thức được đang gặp sự việc gì.
Theo cổ tục dân tộc có một bát cơm (hai chén úp một),cấm
lên hai chiếc đủa và một cái trứng luộc.
3- Khai kinh- Tiến
linh: Thiết lập bàn Phật, thỉnh Phật chứng
minh và siêu độ sự ra đi của vong giả. Tụng
kinh để hương linh làm tư lương hướng
Phật. Khuyến tấn hương linh quy y Phật, dứt
nghiệp trần lao.
4- Phát tang: Ðể
cho bà con thân bằng quyến thuộc có cơ hội từ
giả biệt luận với vong giả. Một hình thức
ghi nhớ ơn đức, hiếu hạnh trong gia tộc.
Ðặc biệt trong nghi thức này vị gia trì sư lại
dùng tam mật tương ưng chú nguyện vào tang phục
và xướng : “Ngũ phục chi nhơn các thọ kỳ
phục” trao cho tang gia mặc vào người. Từ giờ
phút này mới chính thức báo tang, bà con thân hữu mới
thăm viếng với tư cách tang lễ.
5- Triêu điện:
Trong thời gian chưa chôn, các lễ cúng cho hương
linh goị là “điện”. Vậy triêu điện là một
lễ cúng buổi sáng gần ngày đưa đám, thường
giành riêng cho bà con muốn làm một lễ cúng riêng, đọc
ai điếu, lời từ biệt.
6- Tịch điện:
Lễ cúng buổi tối gần ngày đưa đám, thường
giành cho con cháu nội tộc, để con cháu có cơ hội
nói lên ơn nghĩa, những hình ảnh thân thương, tưởng
niệm đến công hạnh của người quá cố.
Còn thường ngày 3 buổi: sáng cúng trà; trưa, chiều
cúng cơm dùng hình thức nghi lễ đơn giản gọi
là “tiến linh”.
7- Triệu tổ:
Lễ này thường được cừ hành trước
ngày di quan khoảng 2 hôm trở lui. Tang quyến thỉnh linh
vị, di ảnh, bát nhang đầy đủ lễ vật
đến tự đường (nhà thờ họ). Ðặt
linh vị trên một cái bàn nhỏ đối diện án thờ
gia tiên. Thí dụ án thờ ở phía tây, linh vị ở phía
đông, con cháu tang quyến ở phía nam; cất gậy, mũ
mấng đi để làm lễ cáo tổ tiên.
8- Sái tịnh,
nhiễu quan và quy y linh: Trong lúc đại chúng đang tụng
chú Ðại Bi, vị chủ sám dùng bình Cam Lồ vào tẩy tịnh
quan tài, chú Ðại Bi vừa dứt, sám chủ thán: “Giác tánh
viên minh, tùng lai trạm tịch; bổn lai nhơn ngã chi huyễn
tướng, hà hữu sanh tử chi giả danh? Nhơn tối
sơ nhất niệm sái thù, tùng mộng tưởng hữu
tư sanh diệt.
Tuy nhiên:
Diệt nhi bất
diệt, Tằng Ðạt Ma chích lý Tây quy.
Sanh nhi bất
sanh, Nãi Thích Tôn song lâm thị tịch.
Nhược
phi nhất nhơn, hiểu liễu nan miễn tứ đại
tương man,
Cố nhơn
thiên thượng, hữu luân hồi khởi phận, thử
đắc vô sanh diệt.
Kim vị
tang chủ: . . . Thống duy:
Hương
hồn quyên tam xích chi xu, nhập cữu tuyền chi lộ.
Lâm thời
hoảng hốt, phách tán hồn phiêu.
Tuy nhiên, thuận
thế gian:
Sanh viết
ký, tử viết quy, bất xuất tử sanh chi nội;
nãi nhược thăng vu thiên nhi giáng vu địa. Tổng
quy lục đạo chi trung, u quan ảm đạm minh tiền
đồ, triễn nghiệp lực na năng giải thoát.”
Thỉnh linh
yết Phật qui y, thuyết linh.
9- Cáo đạo
lộ: Lễ này thường nhờ một người hộ
tang đứng cúng, được cử hành trước
một hôm đưa đám, đặt bàn cúng trước cữa ngõ, ý nghĩa
xin hộ đàng cho đám táng được yên ổn thuận
lợi. Có gia đình tổ chức lễ cúng thí thực và
phóng sanh nữa.
10- Khiển điện:
Lễ này cúng trước khi di quan, thường dành cho bằng
hữu tỏ bày tâm sự, tình cảm với hương
linh qua điếu văn.
11- Di quan (động
quan): Lễ di chuyển quan tài đi chôn hay hỏa táng, một
lễ có nhiều xúc động nhất. Trong lễ này Gia
trì sư thường đội nón Tỳ Lư và cầm
tích trượng để hướng dẩn hương
linh. Sau nghi thức cúng cấp xong, Gia trì sư xướng:
- Cung thối, thỉnh bổngg danh sanh, thần vị, linh ảnh thăng xa.
Triệt
linh sàng.
Thán: Quy khứ lai hề quy khứ lai,
Tây phương tịnh độ
bạch liên khai.
Nhất trận hương
phong xuy hốt đáo,
Hương linh thừa thử
bộ kim giai.
Ngưỡng
bạch Di Ðà từ bi phóng quang tiếp độ.
Nam mô tiếp dẫn đạo
sư A Di Ðà Phật.
12- Tế độ
trung: Cúng giữa đường, lễ này với ý nghĩa:
Trước tiên vì đường sá xa xôi, nghỉ xả hơi
cho âm công (người gánh đám) lấy sức, đãi đằng
ăn uống. Thứ đến để cho con cháu có dịp
lễ lạy tỏ lòng hiếu thảo trong lúc nghỉ giải
lao.
13- Trị
huyệt: Một lễ làm tinh sạch huyệt, trước
khi hạ quan tài.
Sái tịnh,
trị quan, trị huyệt với ý nghĩa dùng nước
Cam lồ làm tinh sạch nơi chỗ để xếp đặt
thi thể, hay nơi thờ cúng. Còn có nghĩa chúng sanh nào đang
ẩn trú vào nơi ấy xin đi nơi khác.
14- Tạ thổ
thần: Lễ khấn vái thổ thần và những hương
linh của những ngôi mộ chung quanh. Nay có huơng linh .
. . cùng chung cư trú tại địa phận này.
15- Nhiễu
mộ: Lễ này cử hành sau khi an táng xong; bái biệt hương
linh, tạ chư Tăng, và quan khách đi dự đám táng.
16- An linh: Khi
về đến nhà, chùa, an vị hương linh để
hương khói thờ phụng. Ngày trước đưa
về nhà, phải thiết bàn thờ riêng trong hai năm hoặc
ít nhất là 100 ngày, sau mới được nhập vào bàn
thờ chung với tổ tiên. Ngoài ra còn có lễ đề
phan vị, đề thần chú, lễ khai môn (mở cửa
mã): sau khi chôn ba ngày làm lễ khai môn để hương
linh được phép ra vào.
Ngày trước
vấn đề tang chế được xem rất quan
trọng nên việc để tang được ấn định
rõ ràng từng cấp phải để tang như thế nào,
bao lâu đã được ghi trong sách Thọ Mai. Nên có rất
nhiều lễ xã tang vào các thời kỳ như: bách nhật,
một năm, hai năm, ba năm . v . v .
Trong nghi xã
tang có các điểm trọng yếu như sau:
Sái tịnh:
Người thọ tang quỳ trước bàn linh, Gia trì sư
rãi nước Cam Lồ, lấy kéo cắt tượng trưng
đồ tang hay lấy khăn
tang xuống.
Xướng:
Ngũ phục chi nhơn, cát tựu trừ phục.
Tán hay tụng:
Giải kết, giải kết,
giải oan kết,
Giải
liễu tiền sanh an hòa hiệp,
Tẩy
tâm địch lự phát kiền thành
Cung
đối án tiền cầu giải kết.
Nam
mô Giải oan kết Bồ Tát (3 lần)
Sau này thời
gian bận rộn, cuộc sống vội vàng, không cho phép
làm đám lâu ngày; Ðể phù hợp với nếp sống,
chỉ còn một vài nơi như ở Huế còn giữ cổ
lệ lễ lược như xưa, còn đại đa
số nghi lễ được giản lược. Thông
thường được gom lại làm các lễ chính như
sau:1- Phát tang, 2- Cầu siêu, 3- Lễ táng (hỏa táng hay thổ
táng). Việc ứng xử tùy theo hoàn cảnh và thời
gian , gộp lại như vậy xem ra cũng gọn nhẹ
về phần bày biện. Nhưng có nơi không giữ được
ý nghĩa của cuộc lễ: Ba buổi lễ xem như
giống nhau, trước bàn Phật, bàn linh, bài bản xướng
tán không rõ rệt; đơn điệu, không diễn tả
được nghi lễ đích thực nói lên hết ý nghĩ
chư tôn cổ đức đưa ra nêu cao việc hiếu
hạnh của con người.
Chúng tôi có cơ
hội tham gia lễ lược giúp quý thầy, quý gia đình
thân hữu: ở Huế trước và sau 1975 (quy y với
thượng tọa Thích Ðôn Hậu năm1956, sinh hoạt
khu vực chùa Ba La, Phú vang); ở Sàigòn (Gò vấp- Bình thạnh)
trong đạo tràng Từ Quang thuộc chùa Vạn Hạnh
(Hoà thượng Thích Minh Châu) từ 1984-1994, ở nam Cali
trong ban hộ niệm chùa Bát Nhã (Thượng tọa Thích
Nguyên Trí) tứ 1995-2002. Có lúc có thầy nhiều hệ phái
khác nhau, có lúc vì hoàn cảnh, thời thế khó khăn không
có thầy, nhất là vùng thôn quê hẽo lánh. Hơn nữa
qua giao thiệp bạn bè khác tôn giáo, chúng tôi cũng có nhịp
tham lễ táng của các tôn giáo bạn như: Thiên chúa giáo mặc
dù việc làm lễ mới vay mượn phong tục tập
quán Việt Nam sau này, nhưng các nhà thờ làm khá đồng
nhất hài hòa. Nhất là Tin Lành mới đây làm theo trào lưu,
nhưng sự sắp xếp khá đồng bộ. Trong lúc
Phật giáo chúng ta, phải nói là thừa kế một rừng
nghi thức, đơn có, kép có, lễ nhạc có. Chúng ta bình
tâm nhận xét lối hành lễ mỗi đám một khác không
đồng bộ, hài hòa, trong cộng đồng nhất
là giới trẻ khó tiếp thu.
Thiết nghĩ
đã đến lúc chúng ta nên chấn chỉnh cung cách cử
hành tang lễ. Nắm vững các nét đặt trưng của
tang lễ, giữ mối đạo, thu phục nhân tâm. Một
tang lễ phải bao gồm các lễ chính như sau:
1- Phát
tang:
a/ Khai kinh bạch Phật: Thiết bàn Phật,
cung kính, nghiêm trang. khấn nguyện rõ ràng.
b/ Trị quan nhập liệm:
Ấn chú nghiêm minh, tẩy tịnh kỹ lưỡng với
ý niệm lấy nước Cam lồ rữa sạch ô uế
hoặc mời những chúng sanh nào còn ẩn trú trong quan tài
xin lui ra.
c/ Phục hồn, thành phục: Thiết bàn linh, thỉnh
linh an vi, trong lúc này thần thức hương linh rất
nhạy bén, nhưng rất sợ hải và dễ bị sân
hận. Quy cách mặc đồ tang, chỉ cho tang quyến
hiểu rõ ý niệm hiếu thảo qua cách để tang, cúng
cơm.
2- Cầu
siêu: .
a/ Sái tịnh: Gia trì sư
làm phép tẩy tịnh quan tài lần này với ý nghĩa rữa
sạch trần lao. Thán: Nhắc nhở hương linh ý thức
sự sanh tử chỉ là giả tướng, không nên lưu
luyến huyễn cảnh trần lao nữa. Nên thuận thế
gian, nghiệp lực, phát tâm quy hướng Phật.
b/ Thỉnh linh quy y: Thỉnh
bát nhang, linh ảnh qua bàn Phật đảnh lễ và quy y,
thuyết linh nhiễu quan, hoàn
cựu sở.
c/ Tịch điện: Cúng cơm tối, con cháu dâng điếu
văn cảm niệm.
3- Lễ
táng:
a/ Khiển điện,
di quan: Cúng cơm, đọc điếu văn bằng hữu,
hội hè. Làm lễ di quan.
b/ Trị huyệt, nhiễu mộ:
Làm lễ trị huyệt, hạ quan tài, nhiễu mộ, lời
cám ơn. Nếu hỏa táng
tụng kinh kỳ siêu .
c/ An linh: Sau khi
chôn hay làm lễ hỏa táng xong, thỉnh bát nhang, linh ảnh
về chùa hay nhà, an linh để hương khói thờ phụng
ít nhất trong vòng 7 tuần lễ.
Qua thời gian, hoàn cảnh
và nếp sinh hoạt hiện nay đã hình thành 3 lễ chính
như trên. Có nhiều thời gian kéo dài thì làm lễ từng
mục một. Thông thường tang lễ 3 ngày thì làm thứ
tự như trên. Nếu thời gian bức bách vội vàng
trong một ngày, một buổi thì nắm những ý chính châm
chước để hoàn thành tang lễ.
Thực ra tang lễ ngày xưa
rất rõ ràng chi tiết, có từng nghi thức, sớ điệp,
tán thán thâm hậu, thống thiết. Nhưng với mục
đích ứng phó đạo tràng, qua thời gian tôi xin ghi lại
những điều cần thiết phải làm cho phù hợp
với nếp sống ngày nay. Nếu khi không có Thầy, cư
sĩ theo nghi thức rút gọn cũng có thể giúp nhau
trong tang lễ.
Đăng nhận xét